Trong công cuộc đổi mới nước ta
hiện nay, vấn đề thất nghiệp và các chính sách giải quyết việc làm đang là vấn
đề nóng bỏng “và không kém phần bức bách” đang được toàn xã hội đặc biệt quan
tâm.
Đất nước ta đang trong quá trình
chuyển sang kinh tế phát triển, chúng ta đang từng bước đổi mới, nhằm nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, kinh tế vĩ mô đã vạch rõ những vấn
đề phát sinh trong đó thể hiện ở những vấn đề: Thất nghiệp, việc làm, lạm
phát....tuy nhiên, đề tài này chỉ đi vào nghiên cứu vấn đề thất nghiệp và
việc làm ở Việt Nam.
Sự
biến động của tỷ lệ thất nghiệp từ năm 1986 đến năm 1996, các nguyên nhân làm
tăng hay giảm tỷ lệ thất nghiệp, trong từng giai đoạn kể trên: Số người tăng thêm trong lực lượng lao động
hàng năm và số người được giải quyết việc làm hàng năm. Các chính sách giải
quyết việc làm của nhà nước ta từ năm 1986 đến nay “đặc điểm của thời kỳ đưa ra
chính sách đó, mục tiêu của chính sách, kết quả đạt được, những vấn đề chưa đạt
được”. Tình hình việc làm của người lao động Việt nam hiện nay, phương hướng
giải quyết việc làm của Nhà nước, phương
hướng giải quyết việc làm của Nhà nước trong thời gian tới.
Đề
tài nghiên cứu này nhằm mục đích đưa ra nhận thức đúng đắn và sự vận dụng có
hiệu quả những vần đề nêu trên. Từ đó có thể nêu lên được cơ sở lý luận để xây
dựng mà hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Việc nhận thức và vận dụng đúng đắn vấn
đề này giúp ta giải quyết được những thực trạng này được là sự giảm sút to lớn
về mặt sản lượng và đôi khi còn kéo theo nạn lạm phát cao. Đồng thời nó còn
giải quyết được nhiều vấn đề xã hội. Bởi vì thất nghiệp tăng số người không có
công ăn việc làm nhiều hơn gắn liền với sự gia tăng các tệ nạn xã hội như: cờ
bạc, trộm cắp...làm xói mòn nếp sống lành mạnh, có thể phá vỡ nhiều mối quan hệ
truyền thống, gây tốn thương về mặt tâm lý và niềm tin của nhiều người.
Trong
đề tài nghiên cứu này, em xin trình bầy một số quan điểm của bản thân vấn đề
thất nghiệp và việc làm của Việt Nam. Tuy nhiên thời gian hạn hẹp và trình độ
của một sinh viên có hạn, bài tiểu luận này chỉ xin dùng lại ở việc tổng kết
những gì đã được học ở trường, các ý kiến và số liệu kèm theo về vấn đề nói
trên đã được một số nhà nguyên cứu đi sâu vào tìm hiểu và được đăng tải trên
báo hoặc tạp chí. Vì vậy, tiểu luận được kết cấu gồm:
1.
Những vấn đề cơ bản về thất nghiệp.
1.1
. Một vài khái niệm về thất nghiệp.
1.2
. Tỷ lệ thất nghiệp
1.3
. Tác động thất nghiệp và việc làm.
2.
Thực trạng, nguyên nhân, giải pháp.
2.1. Thực trạng thất nghiệp ở Việt nam.
2.2.
Nguyên
nhân thất nghiệp ở Việt nam.
2.3.
Giải
pháp và tạo công ăn việc làm.
Kết luận
(1) NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THẤT NGHIỆP.
1.1:
Một vài khái niệm về thất nghiệp.
Để
có cơ sở xác định thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp cân phân biệt một vài khái
niệm sau:
-
Những người trong độ tuổi lao động là những người ở độ tuổi có nghĩa là có
quyền lợi lao động theo quy định đã ghi trong hiến pháp.
-
Lực lượng lao động là số người trong độ tuổi lao động đang có việc làm hoặc
chưa có việc làm nhưng đang tìm việc làm.
-
Người có việc làm nhưng đang làm trong các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội.
-
Người thất nghiệp là người hiện đang chưa có việc làm nhưng mong muốn và đang
tìm việc làm.
-
Ngoài những người đang có việc làm và thất nghiệp, những người còn lại trong độ
tuổi lao động được coi là những người không nằm trong lực lượng lao động bao
gồm: người đi học, nội trợ gia đình, những người không có khả năng lao động do
đau ốm, bệnh tật và một bộ phận không muốn tìm việc làm với nhiều lý do khác
nhau.
Bảng
thống kê dưới đây giúp ta hình dung
Dân số
|
Trong độ tuổi lao động
|
Lực lượng lao động
|
Có
việc
|
|
|
Ngoài lực lượng lao động (ốm đau, nội
trợ, không muốn tìm việc)
|
Thất nghiệp
|
|
Ngoài độ tuổi lao động
|
|
|
Những
khái niệm trên có tính quy ước thống kê va có thể khác nhau giữa các quốc gia.
Do
tình hình kinh tế và đặc điểm tuổi thất nghiệp có sự khác nhau giữa các nước
nên việc xác định những tiêu thức làm cơ sở xây dựng những khái niệm trên thật
không để dầy và cần tiếp tục được thảo luận (thất nghiệp thật sự thất nghiệp vô
hình, bán thất nghiệp và thu nhập...)
1.2:
Tỷ lệ thất nghiệp:
Tỷ
lệ thất nghiệp là một chỉ tiêu phản ánh khái quát tình trạng thất nghiệp của
một quốc gia. Cũng vì thế còn có những quan niệm khác nhau về nội dung và
phương pháp tính toán để nó có khả năng biểu hiện đùng và đầy đủ đặc điểm nhiều
vẻ của tình trạng thất nghiệp thực tế, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Bước
vào năm 1991. Việt Nam có dân số là 66 triệu người, trong đó có 34 triệu người
đang ở tuổi lao động. Năm 2001 dân số là 80 triệu người và số người ở độ tuổi
lao động là 45 - 46 triệu người. Nguồn nhân lực dồi dào ý thức lao động cần cù,
năng động, sáng tạo nắm bắt nhanh những tri thức và công nghệ mới. Hơn 16 triệu
người ít nhất đã tốt nghiệp các trường phổ thông trung học hay trung học dậy
nghề là nguồn nhân lực quan trọng nhất cho sự phát triển ở Việt Nam và tham gia
vào phân công lao động quốc tế.
Dân
số đông tạo nên thị trường nội địa rộng
lớn, một yếu tố hết sự quan trọng đối với việc phát triển kinh tế xã hội. Tuy
nhiên, do tình trạng kém phát triển và có nhiều chế độ đối với nguồn lực khác,
việc dân số phát triển nhanh chóng lại là một gánh nặng gây khó khăn cho việc
cải thiện cơ hội tìm hiểu việc làm và điều kiện sống.
Theo
con số thống kê chính thức. Việt nam có khoảng 1,7 triệu người thất nghiệp
trong đó có rất nhiều cư dân ở các thành phố và chủ yếu là ở độ tuổi thanh
niên. Hơn nữa, còn có tình trạnh thiếu việc làm nghiêm trọng và phổ biến ở nông
thôn vào thời kỳ nhàn rỗi và khu vực kinh tế nhà nước trong quá trình cải tổ hệ
thống kinh tế xã hội, ước tính trong thập kỷ tới mỗi năm sẽ có hơn 1 triệu
người bước vào độ tuổi lao động và tỷ lệ tăng của lực lượng lao động sẽ cao hơn
so với tỷ lệ tăng dân số. Một vài năm trở lại đây, lực lượng lao động đã tăng
3,43 - 3,5% mỗi năm so với mức tăng dân số là 2,2 - 2,4%.
Bảng
số người TN theo độ tuổi
(Đơn vị: người)
Tuổi
|
Số lượng
|
Tỷ lệ số với tổng số N%
|
Tỷ lệ so với dố người cùng độ tuổi%
|
Số lượng
|
Tỷ lệ so với tổng số TN%
|
Tỷ lệ so với số người tuổi%
|
TS
|
1350035
|
100,0
|
4,17
|
661664
|
100,0
|
9,1
|
16-19
|
652261
|
48,3
|
12,43
|
283460
|
12,8
|
25,5
|
20-24
|
376951
|
27,9
|
6,74
|
198037
|
29,9
|
16,4
|
25-29
|
167640
|
12,4
|
3,06
|
94386
|
14,3
|
7,5
|
30-39
|
114655
|
8,5
|
1,47
|
64595
|
9,8
|
3,3
|
40-49
|
27432
|
2,0
|
0,66
|
15467
|
2,3
|
1,5
|
50-hết
|
11093
|
0,8
|
0,35
|
5719
|
0,9
|
0,8
|
TLĐ
|
|
|
|
|
|
|
Nguồn:
PTS Nguyễn Quan Hiển: Thị trường lao động. Thực trạng và giải pháp. Nhà xuất
bản thống kê, Hà Nội 1996, trang 67.
1.3:
Tác động thất nghiệp và việc làm.
Số
người tăng thêm trong lực lượng lao động hàng năm và số người được giải quyết
việc làm hàng năm.
Trong
những năm gần đây, nhờ đường lối đổi mới của Đảng mà nhiều lao động đã và đang
được thu hút vào các ngành nghề, các lĩnh vực, ở mỗi địa bàn, trong nhiều thành
phần kinh tế trên phạm vi quốc gia và từng bước hoà nhập vào cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, do điểm xuất phát thấp nên Việt Nam vẫn là nước nghèo, còn thiếu
việc làm hoặc việc làm không ổn định việc chăm lo giải quyết việc làm đã trở
thành nhiệm vụ cơ bản và cấp bách đòi hỏi các ngành các cấp, mối gia đình và
toàn xã hội phải quan tâm. Từ cơ cấu dân số, ta thấy số người dưới 15 tuổi chiếm
40% trong khi đó tỷ lệ gia tăng tự nhiên cao (2,2%) vì vậy, nẩy sinh một vấn đề
là một lao động bình quân phải nuôi dưỡng nhiều người. Nếu lao động không có
việc hoặc số ngày công trong năm thấp, số giờ làm việc trong 1 ngày, năng suất
lao động 1giờ làm việc kém thì mỗi gia đình và toàn xã hội sẽ rất khó khăn.
Hiện
nay, nguồn lao động hàng năm tăng 3,2 - 3,5%, năm 2001 là 2,7%/năm. Bối cảnh
kinh tế xã hội sinh ra nhiều mâu thuẫn giữa khả năng tạo việc làm còn hạn chế
trong khi đó nhu cầu giải quyết việc làm ngày càng tăng, tất yếu dẫn đến tình
hình một bộ phận lao động chưa có việc làm nhất là đối với thanh niên ở thành
thị, khu công nghiệp, khu tập trung, vùng ven biển. Tổng điều tra dân số ngày
01/04/1989 cho thấy hiện có khoảng 1,7 triệu người không có việc làm. Người lao
động nước ta có đặc điểm:
-
80% sống ở nông thôn
-
70% đang làm trong lĩnh vực nhà nước
-
14% sống lao động làm việc trong khu vực nhà nước
-
10% trong lao động tiểu thủ công nghiệp
-
90% lao động thủ công.
Năng
xuất lao động và hiệu quả làm việc rất thấp dẫn đến tình trạng thiếu việc làm
rất phổ biến và nghiêm trọng. Ở nông thôn 1/3 quỹ thời gian lao động chưa được
sử dụng tốt bằng 5 triệu người lao động. Trong khu vực nhà nước, số lao động
không có nhu cầu sử dụng lên tới 25 - 30% có nơi lên tới 40 - 50%. Đây là điều
làm cho đời sống kinh tế xã hội khó khăn của đất nước ta những năm 1986 - 1991.
Với
tốc độ phát triển dân số và lao động như hiện nay hàng năm chúng ta phải tạo ra
hơn 1 triệu chỗ làm việc mới cho số người bước vào độ tuổi lao động, 1,7 triệu
người chưa có việc làm, hàng chục cán bộ, bộ đội phục viên, xuất ngũ, học
sinh...
Những số liệu dưới đây sự giúp ta
hiểu rõ hơn:
Nhịp độ tăng bình quân hàng năm.
|
1987-1991
|
1992-1996
|
1997-2001
|
|
Tốc
độ tăng dân số (%)
|
2,15
|
2,1
|
1,8
|
|
Tốc
độ tăng nguồn LĐ (%)
|
3,05
|
2,75
|
2,55
|
|
Về
số lượng tuyệt đối
|
1985
|
1991
|
1996
|
2001
|
Tổng
dân số vào tuổi LĐ
|
30,3
|
35,6
|
16,7
|
46,1
|
(Triệu
người)%so với dân số
|
19,2
|
50,2
|
53,3
|
55
|
Mức
tăng bình quân (ngàn người)
|
900
|
1060
|
1023
|
1090
|
Số
thanh niên vào tuổi lao động và số lao động tăng thêm trong 5 năm 1992 - 1996
và 1992 - 2005.
|
5
năm 1992-1996
|
15
năm 1992 - 2005
|
||||
|
Số
TN vào
|
Số
LĐ tăng thêm
|
Số
TN vào
|
Số
LĐ tăng thêm
|
||
|
tuổi
LD
|
Số
lượng
|
Nhịp
độ tăng BQ
|
tuổi
LĐ
|
Số
lượng
|
Nhịp
độ tăng BQ
|
Cả nước
|
7562
|
5150
|
2,75
|
23550
|
15700
|
2,45
|
Miền núi và Trung Du Bắc Bộ
|
1197
|
720
|
2,55
|
3800
|
2460
|
2,55
|
Đồng Bằng Sông Hồng
|
1480
|
960
|
2,45
|
4730
|
3000
|
2,30
|
Khu 4 cũ duyên hải Trung Bộ
|
870
|
580
|
3,00
|
2600
|
1760
|
2,70
|
Đông nam bộ
|
1915
|
1510
|
3,35
|
5762
|
5762
|
2,70
|
Tây nguyên
|
240
|
160
|
2,35
|
850
|
420
|
2,95
|
Theo
thống kê 1996 dân số nước ta khoảng 74 triệu người, số người trong độ tuổi lao
động là 38 triệu chiếm 53% dân số, tốc độ tăng dân số là 2,2%, mỗi năm có
khoảng 0,9-1 triệu người được tiếp nhận và giải quyết việc làm.
Theo
tính toán của tổ chức lao động quốc tế (ILO) với tốc độ tăng nguồn lao động
trên 3% như hiện nay ở Việt nam thì dù cho hệ số co dãn về việc làm có thể tăng từ mức 0,25 lên 0,33,
trong vài năm tới cũng cần có mức tăng GDP trên 10%/ năm mới có thể ổn định
được tình hình việc làm ở mức hiện tại. Vì vậy, dự báo sau năm 2001 nước ta vẫn
sẽ trong tình trạnh dư thừa lao động. Sự “lệch pha” giữa cung và cầu về lao
động là một hiện tượng đáng chú ý trong quan hệ cung cầu lao động ở nước ta
hiện nay. Trong khi nguồn cung về lao động của ta chủ yếu là lao động phổ
thông, lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp, bộ đội xuất ngũ, công nhân giảm
biến chế...thì cần về lao động lại đang đòi hỏi chủ yếu lao động lành nghề, lao
động có trình độ, chuyên môn kỹ thuật cao, các nhà quản lý am hiểu cơ chế thị trường...Chính
sự khác biệt này làm cho quan hệ cung cầu về lao động vốn đã mất cân đối lại
càng gay gắt hơn trước yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Trong
toàn bộ nền kinh tế, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo hiện nay còn rất thấp,
khoảng 4 triệu người, chỉ chiếm 10,5% lực lượng lao động. Điều này cho thấy lực
lượng lao động hiện nay chưa có thể đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội
trong giai đoạn này. Trong số lao động đã qua đào tạo cơ cấu trình độ và ngành
nghề còn nhiều bất cập trước yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại
hoá... Số người có trình độ trên đại học chỉ chiếm khoảng 1,2% trong tổng số
người có trình độ đại học. Về cơ cấu ngành nghề, lao động đã qua đào tạo được
tập trung chủ yếu ở các cơ quan nghiên cứu, các đơn vị hành chính sự nghiệp và
ngành giáo dục, lĩnh vực sản xuất vật chất có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn
thấp, đặc biệt trong nông nghiệp, ngành sản suất lớn nhất cũng chỉ 9,15% lao
động được đào tạo. Có vùng như Tây Nguyên chỉ có 3,51% nhiều lĩnh vực rất thiếu
những cán bộ giỏi, cán bộ quản lý, cán bộ am hiểm công nghệ cao...Điều đó đã
đẫn đến một thực trạng hiện nay là:
Trong khi có hàng triệu người không tìm được việc làm, thì ở một số ngành nghề
và rất nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh thiếu lao động kỹ thuật, lao động có
nghề nghiệp và trình độ phù hợp với yêu cầu của công nghệ sản xuất.
2/ THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, GIẢI PHÁP.
2.1:
Thực trạng thất nhiệp ở Việt Nam
Việt
nam là một trong những nước kinh tế đang phát triển, quy mô dân số và mật độ
dân cư tương đối lớn so với các nước trên thế giới và tốc độ phát triển nhanh,
trong lúc đó việc mở rộng và phát triển kinh tế, giải quyết việc làm gặp nhiều
hạn chế, như thiếu vốn sản xuất, lao động phân bổ chưa hợp lý, tài nguyên khác
chưa được khai thác hợp lý...Càng làm cho chênh lệch giữa cung và cầu về lao
động rất lớn, gây ra sức ép về vấn đề giải quyết việc làm trong toàn quốc.
Tính
bình quân từ 1976 - 1980 mỗi năm tăng 75 - 80 vạn lao động từ 1981 - 1985 mỗi
năm 60-90 vạn lao động và từ năm 1986 - 1991 mỗi năm là 1,06 triệu lao động. Từ
năm 1996 đến năm 2001 tăng 1,2 triệu lao động. Bảng dưới đây cho ta thấy
mối quan hệ giữa sự gia tăng dân số và
nguồn lao động. Do điều kiện kinh tế xã hội điều kiện tự nhiên tài nguyên và
trình độ phát triển kinh tế khác nhau giữa các vùng đất nước, nguồn lao động ở
các vùng đó có mức tăng và tỉ lệ khác nhau.
Bảng
Mối quan hệ dân số và nguồn lao động :
(Đơn vị tính : triệu người )
Năm
|
Dân
số
|
Số
người trong độ tuổi lao động
|
%
trong dân số
|
Tốc
độ tăng nguồn lao động
|
1978
|
49
|
21,1
|
45
|
3,5
|
1980
|
54
|
25,5
|
47
|
3,8
|
1985
|
60
|
30
|
50
|
3,2
|
1991
|
67
|
35,4
|
52,8
|
2,9
|
1996
|
71
|
40,1
|
54,2
|
2,3
|
2001
|
81
|
45,1
|
55,6
|
2,2
|
Nguồn
: Thông tin thị trường lao động. Tập tham luận trung tâm thông tin khoa học và
lao động xã hội.
Quan
hệ cung - cầu trên thị trường lao động ngày càng căng thẳng, thất nghiệp và nhu
cầu việc làm đang trở thành sức ép nặng nề cho nền kinh tế.
Số
người thất nghiệp là số chênh lệch giữa toàn bộ lực lượng lao động và số người
có việc làm. Tỉ lệ thất nghiệp được tính bằng tỉ số giữa người thất nghiệp với
lực lượng lao động. Thất nghiệp ở Việt Nam mang những nét đặc trưng riêng. Khi
nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường, khởi điểm từ năm 1986 đến nay,
tỉ lệ người thất nghiệp tăng lên. Theo số liệu bảng tổng điều tra dân số năm
1989 thì người lao động ở lứa tuổi 16- 19 chiếm 48,3%, lứa tuổi từ 16-24 tuổi
chiếm 71,2%. Năm 1995, số người thất nghiệp toàn phần trong độ tuổi cả nước đã
lên tới con số 2,6 triệu và năm 1996 là 2,5 triệu người. Tỉ lệ người thất
nghiệp hữu hình ở các đô thị chiếm từ 9 - 12% nguồn nhân lực trong đó 85%ở lứa tuổi thanh niên và đại bộ phận chưa
có nghề. Đây là những tỉ lệ vượt quá
giới hạn để đảm bảo an toàn xã hội.
Từ
1991 đến nay, nước ta đạt mức tăng trưởng kinh tế khá, tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) thời kỳ 1992 - 1996 tăng bình quân 7,9%/năm, lạm phát được ngăn chặn lại,
duy trì ở mức 1 con số, năm 1997 lạm phát là 4,5%/năm và năm 1998 là 3,6%/năm.
Sức mua của đồng tiền đã được tăng lên, giá cả ổn định.
Từ
năm 1998 là năm tình trạng thất nghiệp ở các thành phố tăng mạnh hơn so với các
vùng lãnh thổ.
Bảng:
Tỉ lệ thất nghiệp của dân số trong độ tuổi lao động, hoạt động kinh tế ở thành
phố và các khu vực lãnh thổ.
( đơn vị: % )
Năm
Tỉ lệ TN
|
1995
|
1997
|
1998
|
Cả nước
|
6.08
|
5,88
|
6,01
|
Hà Nội
|
7,62
|
7,71
|
8,56
|
Hải Phòng
|
7,87
|
8,11
|
8,09
|
Đà Nẵng
|
5,81
|
5,53
|
5,42
|
TPHCM
|
6,39
|
5,68
|
6,13
|
Miền núi trung du Bắc Bộ
|
6,85
|
6,42
|
6,34
|
Đồng bằng Sông Hồng
|
7,46
|
7,57
|
7,56
|
Bắc Trung Bộ
|
6,60
|
6,96
|
6,69
|
Duyên hải miền Trung
|
4,97
|
5,57
|
5,42
|
Tây Nguyên
|
2,79
|
4,24
|
4,99
|
Đông Nam Bộ
|
6,35
|
5,43
|
5,81
|
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt nam.
Kinh tế Việt nam và thế giới 97 - 98 trang 23.
Số người thất nghiệp ở các đô thị
chiếm tỷ lệ cao hơn thất nghiệp ở nông thôn - Năm 1989 tỷ lệ thất nghiệp ở
thành phố là 13,2% và nông thôn là 4% thì tới năm 1996 đã có sự thay đổi: Ở
thành phố con số này là 8% và ở nông thôn là 4,8%. Trong mấy năm qua, tỷ lệ
thất nghiệp cao ở lứa tuổi thanh niên (từ 15 đến 30 tuổi), chiếm 85% tổng số
người thất nghiệp và tăng dần.
Năm 1989 số người thất nghiệp ở
lứa tuổi này là 1,2 triệu người.
Năm 1991 số người thất nghiệp ở
lứa tuổi này là 1,4 triệu người.
Năm 1993 số người thất nghiệp ở
lứa tuổi này là 2 triệu người.
Năm 1994 số người thất nghiệp ở
lứa tuổi này là 2,3 triệu người.
Năm 1995 số người thất nghiệp ở
lứa tuổi này là 2,21 triệu người.
Lao động thất nghiệp cao ở nhóm
người có trình độ văn hoá thấp, trong nhóm người chưa tốt nghiệp phổ thông cơ
sở. Lao động thất nghiệp chiếm 6,12%; số tốt nghiệp phổ thông cơ sở thất nghiệp
chiếm 4,93%; tốt nghiệp phổ thông trung học chiếm 11,27%; tốt nghiệp trung học
chuyên nghiệp chiếm 2,53% và tốt nghiệp
cao đẳng, đại học chiếm 2,25%.
Như vậy, trình độ văn hoá của
người lao động càng cao thì khả năng tìm kiếm việc làm càng cao.
Là nước nông nghiệp đang phát
triển, nước ta gần 80% lực lượng lao động tập trung ở nông nghiệp. Thất nghiệp
mang tính thời vụ, bán thất nghiệp là phổ biến. Thiếu việc làm ở nông thôn do
nguồn lao động ngày một tăng nhanh trong lúc đó diện tích canh tác chỉ có hạn làm
cho tỷ lệ diện tích theo đầu người càng giảm. Năng suất lao động hiện còn thấp.
Tình trạnh thiếu việc làm đầy đủ còn phổ biến. Quỹ thời gian làm việc trong năm
mới sử dụng được hơn 2/3 năm 1998, tỷ lệ thời gian là được sử dụng ở khu vực
nông thôn nói chung đã được nâng cao hơn sơ với năm 1997. Tính chung cả nước,
tỷ lệ này đã tăng từ 72,1% đến 72,9%. Năm 1998, số người hoạt động kinh tế thường xuyên thiếu việc làm ở nông thôn đã
giảm từ 27,65% của năm 1997 xuống còn 25,47% (26,24%).
* Bảng: Mức tăng nguồn lao động
nông nghiệp so với khối lượng công việc gieo trồng qua các năm (đơn vị tính:
nghìn người, nghìn ha %).
|
1985
|
1986
|
1987
|
1988
|
1. Người lao động nông nghiệp
|
18.808
|
19.787.8
|
20.246.4
|
20.890.7
|
- Tỷ lệ tăng hàng năm %
|
|
5,3
|
2,3
|
3,2
|
2. Diện tích gieo trồng
|
8.556.8
|
8.606.1
|
8.641.1
|
8.883.5
|
- Tỷ lệ tăng hàng năm %
|
|
0,6
|
0,4
|
2,8
|
Nguồn: PTS Nguyễn Quang Hiển: Thị
trường lao động: Thực trạng và giải pháp. Nhà xuất bản thống kê, Hà nội 1991.
Theo tính toán của bộ lao động -
Thương binh xã hội, thời gian thiếu việc làm của lao động nông thôn cả nước
trong một năm, nếu quy ra lao động lên tới 6- 7 triệu người không có việc làm.
Đây là sự lãng phí về nguồn lực rất lớn ảnh hưởng tới nhiều mặt của đời sồng
kinh tế - xã hội. Mặt khác năng suất lao động ở các ngành nghề ở nước ta thấp,
số việc làm có hiệu quả thấp là chủ yếu, tính bình quân năm 1993, một lao động
công nghiệp làm ra 6.943.760 đồng GDP và một lao động nông nghiệp làm ra
1.571.300 đồng GDP.
Năng suất lao động ở nước ta quá
thấp còn thể hiện ở tỷ trọng của lao động trong nông nghiệp còn quá cao.
* Bảng: Lao động đang làm việc
trong các ngành kinh tế quốc dân, đến 1/7/1994 (nghìn người).
Tổng số (triệu người)
|
Công nghiệp
|
Xây dựng
|
Nông nghiệp
|
Lâm nghiệp
|
Thương nghiệp
|
Ngành khác
|
32.718.0
|
3.521.8
|
848.3
|
23.683.8
|
214.4
|
1.776.0
|
|
|
10,8%
|
2,6%
|
7,2%
|
0,6%
|
5,4%
|
8,3%
|
Nguồn:
Trần Minh Trung: "Để có việc làm cho người lao động". Tạp chí thương
mại, 12/1993.
Đến năm 1998, cơ cấu lao động
trong nền kinh tế đã thay đổi, số người lao động đang làm việc trong nông, lâm,
ngư nghiệp chiếm 71%, trong ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 14% và làm việc
trong các ngành dịch vụ chiếm 15% so với tổng số lao động.
Qua phân tích trên đây cho ta
thấy trên thị trường lao động nước ta có sự mất cân đối lớn giữa cung và cầu.
Tuy nhiên, cơ chế thị trường tự nó cũng có những điều chỉnh quan hệ cung cầu.
Sự điều chỉnh này được thể hiện thông qua sự vận động của các dòng lao động (sự
vận động của thị trường lao động).
2.2.
Nguyên nhân thất nghiệp ở Việt nam.
Sự hạn chế khả năng giải quyết
việc làm cho người lao động ở nước ta những nguyên nhân cơ bản sau đây:
Nguyên nhân bao trùm là trong hệ
thống cấu trúc kinh tế xã hội cũ, chúng ta có những sai lầm, khuyết điểm trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, như đại hội VI đã chỉ rõ: Đã duy trì quá
lâu nền kinh tế chỉ có hai thành phần, không coi trọng cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần, kinh tế mở cửa dẫn đến sai lầm trong bố trí kinh tế, chưa quan tâm
đúng mức đến chiến lược xây dựng kinh tế xã hội, hướng vào phát triển những
ngành công nghiệp với quy mô nhỏ để thu hút được nhiều lao động dẫn đến hạn chế
khả năng khai thác các tiềm năng hiện có để phát triển việc làm và tạo nhiều
điều kiện để người lao động tự tạo việc làm cho mình và do người khác. Chức
năng của Nhà nước trong việc tổ chức lao động giải quyết việc làm cho xã hội
chưa được phát huy đầy đủ.
Hai nguyên nhân nữa cũng không
kém phần quan trọng gây ra hiện tượng thất nghiệp đó là:
* Khoảng thời gian thất nghiệp:
Giả sử rằng thường xuyên có một
lượng người thất nghiệp nhất định bổ xung vào đội ngũ tìm kiếm việc làm và nếu
mọi người phải chờ đợi quá nhiều thời gian mới tìm được việc làm thì trong một
thời gian nào đó số lượng người thất nghiệp tăng lên, tỷ lệ thất nghiệp sẽ bị
nâng cao. Thời gian chờ đợi trên được gọi là khoảng thời gian thất nghiệp và nó phụ thuộc vào:
- Cách thức tổ chức thị trường
lao động
- Cấu tạo nhân khẩu của những
người thất nghiệp (tuổi đời, tuổi nghề, ngành nghề)
- Cơ cấu các loại việc làm và khả
năng sẵn có việc làm.
Mọi chính sách cải thiện các yếu
tố trên sẽ dẫn đến rút ngằn khoảng thời gian thất nghiệp.
* Do cạnh tranh mạnh mẽ của cơ
chế thị trường, việc mở rộng sản xuất tạo nhiều việc làm tốt, thu nhập khá và
ổn định luôn gắn liền với năng suất ngày càng cao. Ở mỗi mức tiền công sẽ thu
hút nhiều lao động sẽ tăng lên và khoảng thời gian thất nghiệp cũng sẽ giảm
xuống.
Phân tích một cách sâu sắc các
nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạnh thất nghiệp bao gồm cả những chuyển biến
tích cực sau Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là điều hết sức cần thiết cho
việc đề ra những chỉ đạo thực hiện giải quyết việc làm đầy đủ có hiệu quả.
Thứ nhât: ngay từ đầu, trong cả nước, một
thời kỳ khá dài sau đó chúng ta chưa thấy được (đúng hơn là không muốn thấy)
vai trò ý nghĩa của các thành phần kinh tế đối với phát triển lực lượng sản
xuất, mở mang việc làm cho nhân dân, nên đã hạn chế hết mức gần như xoá bỏ các
thành phần kinh tế cũ, phát triển quá nhanh và có phần ồ ạt thành phần quốc
doanh và tập thể. Đến năm 1975, sau khi giải phóng niềm nam thống nhất đất nước
với hai bài học kinh nghiệm ở miền Bắc, chúng ta mong muốn trong tương lai phát
triển mạnh mẽ nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai: Chậm "mở cửa" trong
phát triển kinh tế đối ngoại cũng như
trong mở rộng giao lưu, thông tin quốc tế nói chung, là một trong những nguyên
nhân ảnh hưởng rõ rệt đến việc sử dụng có hiệu quả nguồn lao động và phát triển
việc làm.
Nước
ta là nước nông nghiệp, chậm phát triển, thuộc vào những nước nghèo nhất thế
giới khi đặt ra chương trình mở mang, phát triển việc làm là thiếu vốn, thiếu
kỹ thuật và máy móc trang thiết bị,
thiếu kinh nghiệm kinh doanh, thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá.
Trong khi đó một số nước phát triển lại thiếu sức lao động, thiếu thị trường
đầu tư. Vì vậy, "mở cửa" phát triển kinh tế đối ngoại là có lợi cho
cả hai bên.
Thứ ba: nguyên nhân ảnh hưởng lớn đã là
những sai lầm, thiếu sót trong việc xác định cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế bao
gồm ba bộ nhận lớn:
-
Cơ cấu thành phần kinh tế
-
Cơ cấu ngành kinh tế
-
Cơ cấu .......... kinh tế
Ngoài
ảnh hưởng của cơ cấu thành phần kinh tế đến giải quyết việc làm như đã nói ở
trên, ảnh hưởng của cơ cấu ngành kinh tế cũng rất lớn.
Trong Đại hội Đảng lần thứ VI xác
định rõ trong những năm 1986 - 1991, những nạn còn lại trong thời kỳ quá độ,
phải tập trung vốn và việc thực hiện mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hành xuất khẩu. Sự điều chỉnh, sắp xếp lại cơ cấu các ngành kinh
tế đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình sử dụng lao động và giải quyết việc
làm. Bắt đầu từ năm 1986 trở đi, các quan hệ tỷ lệ phân bổ lao động giữa các
ngành có chuyển biến theo xu hướng tiến bộ, tình trạng công ăn việc làm được cải thiện, thất nghiệp
giảm đi một bước đáng kể.
Thứ tư: duy trì quá lâu cơ chế quản lý
kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp cũng là nguyên nhân lớn ảnh hưởng nặng nề, đến hiệu quả sử dụng nguồn lao động
và kết quả giải quyết công ăn việc làm. Trên tầm vĩ mô chúng ta còn thiếu một
hệ thống tương đối các luật lệ chính sách nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lao
động và mở mang phát triển việc làm. Ở tầm vĩ mô cơ chế cũ có phần nặng nề hơn.
Hàng loạt các quy chế, chính sách, các hình thức tổ chức, các chức danh tiêu
chuẩn, các biện pháp khuyến khích vật chất và tinh thần, các chế độ, các nề nếp
lao động, sản xuất, học tập nghiên cứu khoa học nhằm đề cao tinh thần tận tụy,
trách nhiệm với công việc, khuyến khích mạnh mẽ tính chủ động tích cực, sáng
tạo của con người đang còn thiếu. Tình trạng tổ chức còn chồng chéo kém hiệu
quả, tình trạng trả công, phân phối bình quân bất hợp lý còn phổ biến làm cho
hiệu suất làm việc kém.
Trên đây là những nguyên nhân
chính ảnh hưởng đến vấn đề tăng giảm thất nghiệp. Trên cơ sở đại hội Đảng làm
thứ VI và những chỉ thị nghị quyết của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ gian gần
đây, chung ta hãy đi vào nghiên cứu con đường và phương hướng sử dụng có hiệu
quả lực lượng lao động tăng thêm hàng năm.
2.3.
Giải pháp và tạo công ăn việc làm.
Để phấn đấu đạt được các mục tiêu
nên trên, chúng ta phải thực hiện đồng bộ hàng loạt các giải pháp, trong đó,
theo chúng tôi cần quan tâm đến các giải pháp chủ yếu sau.
* Huy động mọi nguồn lực để tạo
ra môi trường kinh tế phát triển nhanh có khả năng tạo ra nhiều chỗ làm việc
mới thường xuyên và liên tục. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
hàng năm 9-10% vừa là yêu cầu của sự phát triển vừa là đòi hỏi của tạo công ăn
việc làm.
- Trong điều kiện khoảng 70% lực
lượng lao động của cả nước là lao động nông nghiệp đang thiếu việc làm trầm
trọng, thì giải pháp kinh tế tổng hợp hàng đầu để từng bước khắc phục tình
trạnh này là phải dồn sức cho sự phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp,
gắn với công nghệ chế biến nông lâm thuỷ sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông
thôn theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Phát triển mạnh mẽ các ngành
nghề phi nông nghiệp, sử dụng nhiều lao động ở nông thôn, khôi phục và phát
triển ngành nghề truyền thống hướng đầu tư vào phát triển các cây trồng, vật
nuôi đem lại giá trị kinh tế cao, có khả năng xuất khẩu.
- Đầu tư phát triển các ngành
nghề công nghiệp, chú trọng trước hỗ trợ công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu, xây dựng có chọn lọc một số cơ sở nông nghiệp chế
biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, xây dựng có chọn lọc một số
cơ sở công nghiệp nặng; về dầu khí, xi măng, cơ khí điện tử, thép, phân bón,
hoá chất.
- Đầu tư xây dựng và cải tạo hệ
thống cơ sở hạ tầng phục vụ thiết thực và bực xúc cho phát triển.
- Phát triển các ngành dịch vụ,
trong đó tập trung vào các lĩnh vực vận tải thông tin liên lạc, thương mại, du
lịch, các dịch vụ tài chính, ngân hàng, công nghệ, pháp lý...
Để có được tốc độ phát triển trên
tạo mở thêm nhiều việc làm cho người lao động, phải có chính sách huy động tối
đa các nguồn vốn bên ngoài, tăng nhanh đầu tư phát triển toàn xã hội, đưa tỷ lệ
này đạt khoảng 30% GDP năm 2001.
* Tạo ra một môi trường pháp lý
đồng bộ khuyến khích tạo mở và duy trì chỗ làm việc khuyến khích tự tạo việc
làm.
Bộ luật lao động của nược ta là
cơ sở pháp lý căn bản của vấn đề việc làm. Tuy nhiên việc khuyến khích tự tạo
việc làm chỉ trở thành hiện thực trong cuộc sống khi các văn bản hướng dẫn thực
hiện bộ luật lao động cũng như các văn bản khác về đầu tư, về tài chính - tín
dụng, bổ sung toàn thiện có xem xét kỹ lượng đến vấn đề này một cách động bộ.
* Tiếp tục nghiên cứu, ban hành
các chính sách hỗ trợ các đối tượng yếu thế trong việc tìm kiếm hoặc tự tạo
việc làm. Trong thời gian trước mắt, cần tập trung nghiên cứu ban hành các
chính sách và cơ chế cụ thể về.
-
Khuyến khích sử dụng lao động nữ.
- Khuyến khích sử
lao động là người tàn tật. Hỗ trợ
các cơ sở sản xuất của thương binh và người tàn tật.
-
Chính sách bảo hiểm thất nghiệp
-
Tập chung phần vốn tín dụng từ quỹ quốc gia về việc làm với lãi xuất ưu đãi do
các đối tượng trọng điểm vay theo dự án
nhỏ để tự tạo việc làm cho bản thân gia đình và công cộng.
-
Hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo cho lao độg thuộc diện chính sách ưu đãi, lao
động thuộc đối tượng yếu thế.
*
Phát triển nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống trung tâm dịch vụ việc
làm.
Trung tâm dịch vụ việc làm là một
đơn vị sự nghiệp hoạt động vì muc tiêu xã hội. Nó là chiếc cầu rất quan trọng
và không thể thiếu giữa cung và cầu lao động. Chức năng cơ bản của nó là. Tư
vấn, cung cấp thông tin cho người lao động và sử dụng lao độnh và học nghề,
việc làm, về những vẫn đề có liên quan đến tuyển dụng và sử dụng lao động, giới
thiệu việc làm, cung ứng lao động dạy nghề gắn với việc làm, tổ chức sản xuất ở
quy mô thích hợp để tận dụng năng lực thiết bị thực hành. Nó còn là cách tay
quản lý nhà nước thông qua cung và cần, việc làm lao động.
Kết
luận
Lĩnh vực lao động - việc làm
những năm qua có nhiều đổi mới và thu hút được những kết quả bước đầu đáng
khích lệ.
Trước hết. Nhận thức về việc làm,
hiểu biết về việc làm và cách giải quyết việc làm cũng như tâm lý về việc làm
của người lao động, của xã hội đã được thay đổi tích cực. Tạo và giải quyết
việc làm cho lao động xã hội không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà là trách
nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, các gia đình bản thân người lao động
và của toàn xã hội. Quan điểm nhân dân tự tạo ra việc làm là chính. Nhà nước
tạo ra môi trường kinh tế, pháp luật thuận lợi và hỗ trợ một phần nguồn lực đê
nhân dân tự tạo việc làm đã thấm nhuần trong cuộc sống và trở thành nội lực
thúc đẩy sự nghiệp tạo và giải quyết việc làm. Những năm qua. Đảng và Nhà nước
đã đề ra một loại chính sách chương trình phát triển kinh tế xã hội. Trong đó
có nhiều chính sách, chương trình tác động trực tiếp đến việc tạo và giải quyết
việc làm cho lao động xã hội như: Nghị quyết Vi của trung ương Đảng về chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn, lập
quỹ quốc gia về giải quyết việc làm, chương trình 327 phủ xanh đồi trống - đồi
trọc, chương trình 773 khai thác mặt nước trồng, bãi bồi. Chính sách giao đất,
khoán rừng cho nông dân ổn định; chính sách tín dụng với nông nghiệp nông thôn,
phân bố lại lao động dân cư...
Phương hướng quan trọng nhất để
giải quyết việc làm thời kỳ này, báo cáo của ban chấp hành Trung ương tại Đại
hội VIII của Đảng đã chỉ rõ “Nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển,
thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế - xã hội. Khuyến khích mọi
thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều
việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do ngành nghề, thuê mướn
nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân
cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chất
chiến lược và kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh
xuất khẩu lao động. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc
làm ở nông thôn.
Đất nước ta đang trông chờ vao
thế hệ trẻ, đặc biệt là cán bộ quản lý kinh tế trong tương lai, là một sinh
viên khoa kinh tế tôi nhận thức được điều này. Phải luôn trau rồi kiến thức,
tận dụng thời gian và nâng cao năng lực để theo kịp với sự tiến triển của nền
kinh tế đất nước đang trong thời kỳ đổi mới, một thế giới mới, thế giới của sự
văn minh, giàu có và công bằng.
Tài liệu tham khảo
1/ Nguyễn Quang Hiển: “Thị trường
lao động thực trạnh và giải pháp, Nhà xuất bản thống kê 1999.
2/ Nguyễn Quang Hiển: “Xu hướng
vận động của thị trường lao động nước ta”. Tạp chí kinh tế dự báo số 1/2001
3/ Trần Đình Hoan và Lê Mạnh
Khoa: “Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt nam” Nhà xuất bản -
Hà nội 1999
4/ Trần Minh Trung: “Để có việc
làm cho người lao động”. Tạp chí thương mại, 12/1999
5/ Một số nhiệm vụ và giải pháp
có tính chiến lược về lao động xã hội. Đề tài cấp bộ - Bộ lao động - thương
binh và xã hội 1999.
6/ Niêm giáo thống kê 2000/ 2001
7/ Thời báo kinh tế VN - kinh tế
Việt nam và thế giới 1999-2001.
Chuyên bán Bán máy đo đường huyết giá rẻ. Nếu bạn bị Thận yếu nên ăn gì. Tìm hiểu Cách chữa bệnh thận yếu và Thận yếu uống thuốc gì. Saaya Irie Hot
Trả lờiXóa