1. Tính
cấp thiết
Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành công
nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, muốn vậy cần có nền kinh tế tăng trưởng và
phát triển cao. Trong đó nhu cầu về vốn là hết sức cần thiết, được coi là yếu
tố hàng đầu, là tiền đề phát triển kinh tế.Đại hội đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khoá VII của đảng đã đề ra: “để công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước
cần huy động nhiều nguồn vốn sẵn có với sử dụng vốn có hiệu quả, trong đó nguồn
vốn trong nước là quyết định nguồn vốn bên ngoài là quan trọng...”. Tín dụng ra
đời rất sớm, ra đời khi xã hội bắt đầu có sự phân công lao động xã hội và chế
độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Tín dụng đã tồn tại và phát triển ở
nhiều nền kinh tế với các mức độ phát triển khác nhau. Đặc biệt hiện nay trong
nền kinh tế thị trường, nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh mẽ, cùng với sự
tồn tại các mối quan hệ cung- cầu về hàng hoá, vật tư, sức lao động thì quan hệ
cung cầu về tiền vốn đã xuất hiện và ngày một phát triển như một đòi hỏi cần
thiết khách quan của nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu tiết kiệm và đầu tư. Nhà
nước đã sử dụng tín dụng như một công cụ quan trọng trong hệ thống các đòn bẫy
kinh tế để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Muốn tìm hiểu
rõ về tín dụng tôi đã chọn viết đề tài:
“Tín dụng: cơ sở lí luận và thực tiễn ở Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Góp phần hệ thống hoá cơ sở lí luận về tín
dụng.
-
Phân tích tình hình tín dụng ở Việt
Nam.
-
Đưa ra một số biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả của hoạt động tín dụng.
II. NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN
1. Cơ sở lí luận về tín dụng
1.1. Khái
niệm:
Tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc có hoàn trả.
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một số hành vi
kinh tế rất phức tạp như: bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo hành,ký thác,
phát hành giấy bạc.
Trong mỗi một hành vi tín dụng có hai bên
cam kết với nhau như sau:
- Một bên
thì trao ngay một số tài hoá hay tiền tệ
- Còn một bên kia cam kết sẽ hoàn lại
những đối khoản của sổ tài hoá trong một thời gian nhất định và theo một số
điều kiện nhất định nào đó.
Nhà
kinh tế pháp, ông Louis Baudin, đã định nghĩa tín dụng như là “ Một sự trao đổi tài hoá hiện tại lấy một
tài hóa tương lai”. ở đây yếu tố thời gian đã xen lẫn vào và cũng vì có sự xen
lẫn đó cho nên có thể có sự bất trắc, rủi ro xảy ra và cần có sự tín nhiệm của
hai bên đương sự đối với nhau. Hai bên đương sự dựa vào sự tín nhiệm, sử dụng
sự tín nhiệm của nhau vì vậy mới có danh từ thuật ngữ tín dụng. Những hành vi
tín dụng có thể do bất cứ ai thực hiện. Chẳng hạn hai người thường có thể cho
nhau vay tiền. Tuy nhiên ngày nay khi nói tới tín dụng người ta nói ngay tới
các ngân hàng vì các cơ quan này chuyên làm các việc như cho vay, bảo lảnh,
chiết khấu, kí thác và phát hành giấy bạc.
1.2.
Cơ sở ra đời của tín dụng
Khi có sự phân công lao động xã hội
và sự xuất hiện của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì tín dụng ra đời. Sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất dẫn đến sở hữu tư nhân về sản phẩm làm ra. Xã
hội có sự phân hoá giàu nghèo. Những người nghèo khi gặp khó khăn trong cuộc
sống họ phải vay mượn. Tín dụng ra đời. Trên phương diện xã hội, do có sự phân
công lao động xã hội hình thành sản xuất hàng hoá và tiền tệ đã xuất hiện để sử
dụng trong quá trình sản xuất hàng hoá. Người sản xuất có lúc thiếu vốn bằng
tiền để tiến hành sản xuất kinh doanh nhưng có lúc thừa vốn bằng tiền. Để điều
chỉnh nhu cầu và khả năng vốn bằng tiền của các chủ thể trong quá trình sản
xuất hàng hoá đòi hỏi tín dụng ra đời.
Trong
lịch sử phát triển kinh tế xã hội, hình thức đầu tiên của tín dụng là tín dụng
nặng lãi được ra đời vào thời kì cổ đại. Trong xã hội nô lệ và nhất là ở xã hội
phong kiến, tín dụng nặng lãi đã phát triển và mở rộng hơn. Đặc điểm của tín
dụng nặng lãi là lãi suất rất cao, hình thức vận động của vốn rất đa dạng, dưới
nhiều hình thức và mục đích vay vào tiêu dùng là chủ yếu. Khi phương thức sản
xuất Tư bản chủ nghĩa hình thành và phát triển, nền sản xuất hàng hoá lớn được
mở rộng, tín dụng tư bản chủ nghĩa về cơ bản đã thay thế tín dụng nặng lãi. Tuy
vậy tín dụng nặng lãi không mất đi mà vẫn tồn tại và phát triển ở nhiều nền
kinh tế với các mức độ phát triển khác nhau. Hiện nay tín dụng nặng lãi vẫn tồn
tại phổ biến ở các nước chậm phát triển. Ngày nay cùng với sự phát triển của xã
hội, tín dung cũng không ngừng mở rộng và phát triển đa dạng. Chủ thể tham gia
tín dụng bao gồm tất cả các thành phần kinh tế: Nhà nước, doanh nghiệp, cá
nhân, tư nhân. tập thể, tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương, các tổ
chức chính phủ, phi chính phủ trong nước,quốc tế. Các quan hệ tín dụng được mở
rộng cả về đối tượng và quy mô hoạt động. Thể hiện ở các ngân hàng có mặt ở hầu
hết mọi nơi. Hầu như toàn bộ các doanh nghiệp, các nhà kinh doanh đều sử dụng
vốn tín dụng dưới hình thức vay ngân hàng, phát hành trái phiếu, mua chịu hàng
hoá. Khối lượng vốn tín dụng ngày ngày càng lớn, các hình thức tín dụng ngày
càng đa dạng (tín dụng nhà nước,ngân hàng, thuê mua, nặng lãi...).
1.3.
Bản chất của tín dụng
Tín dụng rất phong phú và đa dạng về
hình thức. Bản chất của tín dụng thể hiện ở các phương diện sau: Một là người
sở hữu một số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khác sử dụng một thời
gian nhất định. Lúc này, vốn được chuyển từ người cho vay sang người vay. Hai
là, sau khi nhận được vốn tín dụng, người đi vay được quyền sử dụng để thõa mãn
một hay một số mục đích nhất định. Ba là, đến thời hạn do hai bên thỏa thuận,
người vay hoàn trả lại cho người cho vay một giá trị lớn hơn vốn ban đầu, tiền
tăng thêm được gọi là phần lãi.
Các Mác đã viết về bản chất của tín dụng
như sau: “ Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sơ hữu một thời gian và chẳng
qua chỉ tạm thời chuyển từ tay người tư hữu sang tay nhà tư bản hoạt động, cho
nên tiền không phải bỏ ra để thanh toán, cũng không phải tự đem bán đi mà cho
vay, tiền chỉ đem nhượng lại với một điều kiện là nó sẽ quay về điểm xuất phát
sau một kì hạn nhất định”. Đồng thời
CácMác cũng vạch ra yêu cầu của việc tiền quay trở về điểm xuất phát là:
“vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn lên trong quá
trình vận động”. Đến nay các nhà kinh tế đã có nhiều định nghĩa khác nhau về
tín dụng nhưng đều phản ánh một bên là đi vay và một bên là cho vay, nó dựa
trên cơ sở của lòng tin. Lòng tin được thể hiện trên khía cạnh: người cho vay
tin tưởng người đi vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả và là quan hệ có thời
hạn, có hoàn trả. Đây là bản chất của tín dụng.
1.4. Vai trò của tín dụng trong nền kinh
tế thị trường:
-
Tín dụng góp phần đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra thường xuyên, liên
tục.
Do
tính đa dạng trong luân chuyển vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường, tại một thời điểm nhất định trong nền kinh tế có một số doanh nghiệp
“thừa vốn” tạm thời do bán hàng hoá có tiền nhưng chưa có nhu cầu sử dụng ngay(
như chưa trả lương cho công nhân viên...) đã làm nảy sinh nhu cầu cho vay vốn
để trách tình trạng ứa đọng vốn và có thêm lợi nhuận.Trong khi đó có những
doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời do hàng háo chưa bán được, nhưng lại có nhu cầu
mua nguyên vật liệu, thanh toán tiền lương... làm nảy sinh nhu cầu đi vay để
duy trì sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận. Tín dụng với việc cung cấp tín
dụng cho vay kịp thời, đã tạo khả năng đảm bảo tính liên tục của quá trình sản
xuất kinh doanh,cho phép các doanh nghiệp thoả mãn nhu cầu về vốn luôn thay đổi
và không để tồn đọng vốn trong quá trình luân chuyển.
-
Tín dụng góp phần tích tụ, tập trung vốn thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Tập
trung vốn phải dựa trên cơ sở tích luỹ. Trong thực tế, có những lượng tích luỹ
rất lớn được nắm giữ ở các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Nhưng rất nhiều
người tích luỹ không muốn cho vay trực tiếp hoặc không muốn có cổ phần trong
các dự án đầu tư vì ngoài lí do mất khả năng thanh khoản thì người tích luỹ còn
bị hạn chế bởi khả năng, kiến thức về tài chính và pháp lí để thực hiện trực
tiếp đầu tư hoặc cho vay. Với hoạt động của hệ thống tín dụng có đủ độ tin cậy,
do tính chuyên môn hoá cao trong hoạt động tín dụng và đa dạng hoá các doanh
mục đầu tư thông qua nhiều nhà đầu tư của nhiều dự án khác nhau vay, từ đó làm
giảm bớt rủi do cá nhân của những người tích luỹ, tạo nên quá trình tập trung
vốn được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả đã tạo khả năng cung ứng vốn cho
nền kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nhờ
nguồn vốn tín dụng có thể nhanh chóng mở rộng sản xuất, thực hiện các dự án đầu
tư tạo những bước nhảy vọt về năng lực sản xuất do tiếp cận được với phương
tiện máy móc hiện đại, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Tín
dụng góp phần điều chỉnh ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Trong
nền kinh tế thị trường, các nhà đầu tư thường chỉ tập trung vốn đầu tư vào các
lĩnh vực có lợi nhuận cao, trong khi đó, nền kinh tế đòi hỏi phải có sự phát
triển cân đối, đồng bộ giữa các ngành và các vùng, yêu cầu phải có những ngành
then chốt, mũi nhọn để tạo đà cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
Tín
dụng thông qua cung cấp vốn, đặc biệt là
vốn trung và dài hạn đầy đủ, kịp thời với lãi suất và điều kiện cho vay ưu đãi,
có vai trò quan trọng trong việcgóp phần đảm bảo vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng,
hình thành các ngành then chốt, mũi nhọn và các vùng kinh tế trọng điểm góp
phần hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu. Chẳng hạn, với ưu đãi về vốn, lãi suất,
thời hạn và điều kiện vay vốn với nông nghiệp , nông thôn để xây dựng cơ sở vật
chất, kết cấu hạ tầng, tín dụng góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp.
Tín
dụng còn là phương tiện để nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thích hợp để
ổn định nền kinh tế khi nền kinh tế có dấu hiệu bất ổn. Chẳng hạn như khi nền
kinh tế phát triển chậm, sản xuất đình trệ, nhà nước thực hiện chính sách tiền
tệ “nới lỏng”, ngân hàng trung ương thực hiện mua các chứng khoán của các ngân
hàng thương mại, tạo áp lực giảm lãi suất dẫn đến chi phí vay vốn giảm, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và ngược lại. Hơn nữa, với sự tham gia của tín dụng thông qua dịch vụ thanh
toán không dùng tiền mặt đã giảm chi phí lưu thông và an toàn trong thanh toán.
-
Tín dụng góp phần nâng cao đời sống của nhân dân và thực hiện các chính sách xã
hội khác của nhà nước.
Với
các hình thức tín dụng, cơ chế và lãi suất thích hợp tín dụng đã góp phần nâng
cao đời sống của nhân dân ngay cả khi thu nhập còn hạn chế.
Thông
qua các ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện và thời hạn vay đối với người nghèo
và các đối tượng chính sách, tín dụng đã đóng vai trò quan trọng nhằm thực hiện
các chính sách việc làm, dân số và các chương trình xoá đói giảm nghèo, đảm bảo
công bằng xã hội.
-
Tín dụng góp phần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
Hoạt
động tín dụng không chỉ bó hẹp trong nền kinh tế của một quốc gia, mà còn mở
rộng trên phạm vi quốc tế. Trong điều kiện kinh tế mở, vay nợ nước ngoài ngày
nay trở thành một nhu cầu khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới, nó
lại càng tỏ ra bức thiết hơn đối với các nước đang phát triển. Việt Nam cũng
như nhiều nước đang phát triển khác, là nước nghèo, tích luỹ trong nước còn hạn
chế, trong khi cần lượng vốn rất lớn để phát triển kinh tế. Nhờ có tín dụng,
các nước có thể mua hàng hoá, nhập khẩu máy móc, thiết bị...và tiếp cận với
những thành tựu khoa học kĩ thuật mới cũng như trình độ quản lý tiên tiến trên
thế giới. Việc cấp tín dụng của các nước không chỉ mở rộng và phát triển quan
hệ ngoại thương, mà còn tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế ở các nước
nhập khẩu. Tín dụng đã tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư quốc tế trực tiếp –
một hình thức hợp tác kinh tế ở mức độ cao hơn.
1.5. Một số hình thức tín dụng chủ yếu
-
Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghệp với nhau và
được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Người bán chuyển hàng hoá
cho người mua, người mua được sử dụng hàng hoá trong một thời gian nhất định.
Đến hạn nhất định người mua phải trả tiền cho người bán thông thường bao gồm cả
lãi suất. Trong trường hợp này người mua không được hưởng chiết khấu bán hàng.
Cơ sở pháp lí để xác định nợ trong quan hệ tín dụng thương mại là các giấy nợ.
Do
có tín dụng thương mại nên đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp tạm
thời thiếu vốn trong thời hạn ngắn, giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được
hàng hoá, các chủ doanh nghiệp khai thác được nguồn vốn đáp ứng kịp thời cho
sản xuất kinh doanh.
Tuy
nhiên tín dụng thương mại cũng có những hạn chế nhất định. Thứ nhất là hạn chế về quy mô tín dụng. Nếu người
cần vốn có nhu cầu cao thì người bán không thể đáp ứng được. Thứ hai là hạn chế
về thời hạn cho vay, thời hạn cho vay thường là ngắn. Ba là hạn chế về số lượng
người tham gia. Chỉ có một số doanh nghiệp nhất định tham gia vào hình thức
này. Đó là những doanh nghiệp cần hàng hoá dự trữ để đưa vào sản xuất ngay,
những doanh nghiệp cần tiêu thụ hàng hóa. Bốn là chỉ thực hiện được trên cơ sở
tín nhiệm lẫn nhau.
-
Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng
với các chủ thể xã hội.
Trong
quan hệ tín dụng ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay ngân hàng
là môi giơí trung gian giữa người có vốn và người cần vốn. Ngân hàng là tổ chức
kinh doanh tập thể, Hoạt động tín dụng là hoạt động dựa trên những nguyên tắc
cho vay nhất định. Nguyên tắc cơ bản là cho vay phải có hàng hoá tương đương đảm bảo như có tài
sản thế chấp hoặc phải có giấy tờ tín chấp. Cho
vay phải hoàn trả đúng hạn cả vốn
và lãi. Tín dụng ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tập thể bao gồm: thương
mại và bút tệ trong đó chủ yếu là bút tệ. Tín dụng ngân hàng là hình thức tín
dụng chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân và có quan hệ chặt chẽ với tín dụng
thương mại, bổ sung và hỗ trợ cho tín dụng thương mại. Các thương phiếu trong
lĩnh vực thương mại được thanh toán qua ngân hàng. Nếu người trả không có tiền
thì được ngân hàng cho vay. Như vậy tín dụng ngân hàng đã tạo cơ sở cho tín
dụng ngân hàng hoạt động. Ngược lại hoạt động của tín dụng ngân hàng sẽ khắc
phục được những hạn chế của lĩnh vực thương mại
-
Tín dụng nhà nước: là quan hệ giữa một bên là nhà nước còn bên kia là cư dân và
các tổ chức kinh tế xã hội.
Ở
hình thức tín dụng này nhà nước vừa là người đi vay vừa là người cho vay, nhà
nước có thể cho đân cư vay dưới hình thức phát hành các tín phiếu trái phiếu
kho bạc, chính phủ nhà nước cho vay thường là chương chình tín dụng ưu đãi.
Phạm vi hoạt động và huy động vốn rộng lớn gồm cả trong nước và nước ngoài.
Hình thức huy động vốn rất phong phú. Có thể dưói hình thức cho vay trực tiếp
nước ngoài bằng công trái, bằng tiền, bằng vàng, bằng ngoại tệ dưới hình thức
là phiếu, tín phiếu, trái phiếu của chính phủ tín dụng ngắn hạn, tín dụng dài
hạn. Tín dụng nhà nước vừa mang tính lợi ích kinh tế vừa mang tính cưỡng chế
chính trị xã hội.
-
Tín dụng không chính thống: là quan hệ tín dụng giữa cá nhân với nhau không đặt
dưới quan hệ pháp luật
Hoạt
động của quan hệ không chính thống không chịu sự quản lí và giám sát của nhà
nước, hoạt động trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau. Lượng vốn vay nhỏ, thời gian vay
ngắn, lãi suất vay cao hay thấp tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa người đi vay và
người đi vay. Thủ tục vay thường đơn giản, tiện lợi, bất cứ lúc nào cũng có
sẳn. Chính vì vậy mà trong nền kinh tế hiện đại loại hình này vẫn tồn tại khá
phổ biến, hình thức hoạt động phong phú, đa dạng.
-
Tín dụng thuê mua: là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp thuê tài sản với
các tổ chức tín dụng thuê mua như các công ty thuê mua, các công ty tài chính
Tín
dụng thuê mua là kiểu cho thuê tài sản chuyên dụng kèm theo lời hứa sẽ bán lại
về sau, chậm nhất là khi kết thúc hợp đồng cho người thuê theo giá thoã thuận
từ đầu.
2. Thực tiễn
tín dụng ở Việt Nam
Nước
ta hiện nay hệ thống tín dụng bắt đầu phát triển mạnh. Trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải có nền kinh tế phát triển vững mạnh. Vì vậy nhu
cầu về vốn ngày càng nhiều, vốn được coi là yếu tố hàng đầu, là tiền đề phát
triển kinh tế.
Đảng
và nhà nước đã sử dụng phương pháp tín dụng là phương pháp chủ yếu để giúp đỡ
về tài chính cho các tổ chức kinh tế tập thể.Bằng phương pháp tín dụng, ngân
hàng cho các tổ chức kinh tế tập thể vay vốn cố định và vốn lưu động để tăng
thêm năng lực sản xuất, áp dụng các thành tựu sản xuất vào trong đơn vị mình.
Thực tế đã chứng minh rằng đầu tư tín dụng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với các tổ chức kinh tế tập thể. Trong nhiều cơ sở, đặc biệt là trong các hợp
tác xã nông- lâm- nghư. Vốn tín dụng chiếm một tỷ trọng khá lớn trong toàn bộ
vốn hoạt động của đơn vị.
Ở
nước ta trước cách mạng tháng 8/45 và trong thời kì từ năm 54-75 ở miền nam các
quan hệ tín dụng thể hiện sự bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với dân tộc việt
nam, của giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của giai
cấp phong kiến và bọn cho vay nặng lãi đối cới những người sản xuất nhỏ là nông
dân và dân nghèo thành thị.
Việt
nam, trước đây bọn đế quốc và các giai cấp thống trị trong nước vừa thực hiện
sự bóc lột thông qua các hình thức tín dụng tư bản chủ nghĩa vừa duy trì sự bóc
lột bằng tín dụng nặng lãi. Tình hình nay đã tác động rất xấu đến nền kinh tế
và xã hội nước ta.
Sau
cách mạng tháng 8 năm 1945 quan hệ giai cấp trong xã hội việt nam đã có nhiều
thay đổi và tín dụng đẫ bắt đầu đem theo những nội dung kinh tế xã hội mới, hạn
chế dần mặt bóc lột và chuyển sang phục vụ quyền lợi của đại đa số nhân dân lao
động.
Ngày
nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, tín dụng cũng được mở rộng
và phát triển đa dạng, hình thức phong phú. Tất cả các thành phần kinh tế đều
có thể là chủ thể tham gia tín dụng. Các quan hệ tín dụng được mở rộng. Các hệ
thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng có mặt ở hầu hết mọi nơi. Hệ thống ngân
hàng việt nam đã có vai trò quan trọng trong việc huy động và cho vay vốn tới
các thành phần kinh tế.
Thực
hiện nhiệm vụ chủ yếu mà thống đốc ngân hàng nhà nước đã đề ra là triệt để khai
thác nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đâù tư phát triển. Nhiều chi nhánh ngân
hàng công thương đã đa dạng hoá các hình thức huy động vốn với lãi suất hấp dẫn
theo cơ chế thị trường. Nguồn vốn huy động của toàn hệ thống luôn duy trì mức
tăng trưởng ổn định. Tính đến tháng 10/2000 tổng vốn huy động tăng 24% so với
đầu năm. Trong đó vốn huy động đồng việt nam tăng 20,5%.
Ngân
hàng công thương việt nam, luôn năng động, sáng tạo mở ra nhiều loại hình cho
vay mới, chủ động tìm kiếm các dự án khả thi. Nâng cao năng lực thẩm định, mở
rộng diện đầu tư. Khách hàng là mọi thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Hợp tác với các ngân hàng bạn để cho vay hợp vốn, đồng
tài trợ trong lĩnh vực Điện lực, Bưu chính viễn thông, hoạt động xuất nhập
khẩu... đáp ứng cao nhất cho nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Tín dụng của
ngân hàng công thương đã tập trung vào các ngành kinh tế mũi nhọn như các tổng
công ty lớn nhà nước, tạo bước chuyển mới trong cơ cấu tín dụng, dịch vụ và
kinh doanh tiền tệ.
Ngoài
chức năng chủ yếu là kinh doanh, ngân hàng công thương vẫn phát triển cho vay
theo chính sách và thực hiện các chương trình kinh tế xã hội của nhà nước giao
như cho vay khắc phục hậu quả bão lụt, cho vay tạo việc làm cho người hồi hương
từ Đức, cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay phát triển kinh tế biển, cho
vay hỗ trợ sinh viên học tập từ các trường cao đẳng và đại học, cho vay đáp ứng
nhu cầu thu mua nông sản, lương thực để dự trữ và xuất khẩu.
Sau
khi ưu tiên đáp ứng vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của nền kinh tế nguồn vốn
còn lại ngân hàng công thương đã tham gia hoạt động trên thị trường tiền tệ.
Như đầu tư vốn mua trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ,tín phiếu ngân hàng
nhà nước,công trái xây dựng tổ quốc... Ngân hàng công thương tích cực hoạt động
mua bán lại giấy tờ có giá trên thị trường mở và là một thành viên tham gia
giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Mặc
dù tín dụng Việt Nam hiện nay đã và đang phát triển mạnh tuy nhiên còn nhiều
bất cập. ở tầm vĩ mô, văn bản pháp quy về tín dụng chưa đồng bộ. Chưa tạo được
hành lang pháp lí; Hệ thống tín dụng chưa phát triển đồng bộ ở các vùng, địa
phương; Các hình thức vay vốn còn phức tạp.
III. KẾT
LUẬN.
Hoạt
động tín dụng có vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế.
Vì vậy việc mở rộng và phát triển tín dụng là tất yếu khách quan. để tạo nguồn
vốnphục vụ đầu tư phát triển,công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam
cần tiếp tục hoàn chỉnh đưa vào hoạt động các thị trường tiền tệ (như thị
trường liên ngân hàng; thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc); và cùng với các
ngành đưa vào hoạt động thị trường chứng khoán trong thập kỷ này. Thực hiện
chính sách huy động vốn và cho vay vốn tích cực, mạnh mẽ vừa đảm bảo về khối
lượng vừa chú trọng hiệu quả chất lượng sử dụng vốn đảm bảo khả năng hoàn trả.
Về việc huy động vốn, trước hết, cần khẳng định rằng trong điều kiện thu nhập
bình quân theo đầu người còn thấp như hiện nay, khả năng tiết kiệm của nhân dân
nhìn chung hạn hẹp. Bằng các hình thức huy động tiết kiệm phong phú với lãi
suất khá cao hiện nay, hệ thống ngân hàng đã thu hút được phần lớn tiền nhàn
rỗi trong dân cư ( tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đã chiếm
tới 65% tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế). Để nền kinh tế có tăng
trưởng cao, tín dụng ngân hàng cần được mở rộng đáp ứng các nhu cầu vay vốn có
hiệu quả với phương châm không để các dự án đầu tư có hiệu quả cao bị thiếu
vốn. Cơ cấu tín dụng cần tiếp tục chuyển
dịch có lợi cho đầu tư phát triển, tăng cường cho vay trung và dài hạn. Không
ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỉ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi xuống
mức lành mạnh theo tiêu chuẩn quốc tế, tăng vòng quay và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của xã hội. Tiếp tục mở rộng đối tượng cho vay đến cả các thành phần
kinh tế, chú ý thích đáng việc cho vay đối với nông dân và các đối tượng chính
sách, mở rộng các hoạt động dịch vụ và phục vụ của hệ thống ngân hàng thương
mại, góp phần khuyến khích phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng, địa
phương.
Đảng
ta cần có hệ thống, chính sách văn bản đầy đủ, đồng bộ tạo điều kiện cho tín
dụng phát triển.
Cần
xây dựng hệ thống tín dụng đồng bộ, rộng khắp. Đội ngũ cán bộ có trình độ cao.
Đặc biệt nước ta cần hội nhập với quốc tế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét