Xã hội loài người đã tồn tại, phát
triển và trải qua các hình thái kinh tế và luôn gắn liền với hoạt động lao động
sản xuất ra của cải vật chất. Hay sản xuất ra của cải vật chất là nền tảng của
đời sống xã hội. Nếu ngừng lao động sản xuất ra của cải vật chất thì sự sống
trên toàn cầu bị huỷ diệt.Bên cạnh đó sản xuất vật chất còn là nền tảng hình
thành tất cả các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần cuả hội .Qua đó ta thấy
được tầm quan trong to lơn của kinh tế
trong sụ tồn tại và phát triển của
xã hội bởi vì kinh tế chinh là kết quả của quá trình lao động sản suất
của cải ,vật chất. Không vượt khỏi quy luật khach quan, nền kinh tế nước ta
cũng là nên tảng cho sự tồn tại và phát triển của đất nước ta .
Tháng 12 năm 1986, đại hội VI của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã họp và đề ra đường lối đổi mới kinh tế. Đó là chuyển sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Hơn 10 năm qua, việc chuyển
đổi kinh tế luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của xã hội . Chính vì lý do đó mà
em quyết định chọn đề tài trên cho bài tiểu luận này.
PHẦN
MỞ ĐẦU
Cơ sở lý luận về chuyển đổi về
nền kinh tế thị trường
I.
Quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lê nin.
Triết học Mác- Lênin đã trở thành cơ
sở lý luận cho mọi khoa học khác và là kim chỉ lam cho mọi hoạt động tích cực
của xã hội. Những quy luật mà triết học Mác-Lê nin phát hiện, nó đã giúp con
người nhận thức đúng đắn hơn về thế giới khách quan. Từ đó tích cực lao động
cải tạo thế giới nhằm mục đích phục vụ cho cuộc sống con người. Và mặc dù sự
tồn tại phát triển của thế giới rất phức tạp nhưng cũng không thể vượt qua
những quy luật khách quan của chủ nghĩa Mác. Những quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lê nin đưa ra luôn được chứng minh là đúng thông qua những hoạt động sản xuất
vật chất của toàn bộ thế giới.
Một trong những quan điểm đúng đắn
đó phải kể đến quan điểm trong triết học Mác- Lê nin. Nội dung của quan điểm
là: “ Khi con người xem xét sự vật hoạt động thì phải tìm ra được ra được các
mối liên hệ vốn có của nó và đánh giá vai trò của từng mối liên hệ một. Từ đó
thấy rõ được tất cả các mặt, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau”. Thật vậy,
muốn xem xét, đánh giá một sự vật nào đó chúng ta cần xem xét một cách toàn
diện dưới mọi góc độ và đặt nó trong mọi liên hệ. Quan điểm đó là phép duy vật
biện chứng, là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp
luận biện chứng. Chính vì vậy quan điểm này đã góp phần to lớn khắc phục những
hạn chế trước đây trong cách nhìn nhận, đánh giá sự vật và mở đường cho đánh
giá đúng đắn kể từ khi nó ra đời. Sự đúng đắn của phép duy vật biện chứng được
chứng minh bằng việc con người luôn vận dụng nó vào thực tiễn. Vận dụng quan
điểm vào hoạt động lao động sản xuất và hoạt động kinh tế- chính trị- văn hoá
nghiên cứu khoa học...v.v...Từ đó đẩy nhanh sự phát triển mọi mặt đời sống xã
hội.
II.Khái
niệm về kinh tế thị trường.
“ Một nền kinh tế mà trong đó các vấn
đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường” (Giáo
trình: Kinh tế chính trị Mác- Lê nin (Tập 2). Cơ chế thị trường được hiểu là cơ
chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của quy luật kinh tế vốn
có của nó. Cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là: cái
gì? như thế nào? cho ai? cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung-
cầu và giá cả thị trường.
III.
Việc vận dụng quan điểm trong triết học Mác-Lê nin vào hoạt động .
Mọi hệ thống kinh tế điều được tổ
chức bằng cách này hay cách khác để huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá để thoả mãn nhu
cầu tiêu dùng của xã hội. Chính vì vậy, vấn đề cơ bản của hoạt động kinh tế là
làm thế nào để áp dụng các nguồn lực và tổ chức sản xuất tốt nhất, việc phân
phối hàng hoá sản xúât ra phù hợp nhất, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của xã hội .
Theo quy luật trung của tồn tại thì
lĩnh vực kinh tế cũng biện chứng đó là: kinh tế luôn đòi hỏi các nhà hoạt động
kinh tế phải tuân theo nguyên tắc toàn diện phát triển và lịch sử cụ thể trong
vấn đề sản suất như sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào .
Tức hoạt động sao cho hiệu quả kinh tế đem lại là lớn nhất. Vậy làm thế nào để
đáp ứng được yêu cầu đó.
Ta biết, khi lý luận của triết học
Mác-Lênin chưa ra đời đã có những hoạt động kinh tế nhưng do chưa nắm bắt được
các quy luật khách quan của thế giới nên các hoạt động kinh tế còn mò mẫm và bị
các quy luật tự nhiên chi phối dẫn đến năng suất lao động đạt được không cao.
Từ khi triết học Mác-Lênin ra đời. Các quan điểm đúng đắn của nó đã chở thành
cơ sử lý luận làm kim chỉ nam cho lĩnh vực hoạt đông kinh tế. Các nhà hoạt động
kinh tế trên thế giới đã áp dụng quan điểm trong triết học Mác-Lênin hay chính
là phép duy vật biện chứng vào thực tiễn hoạt động của mình. Nhờ có quan điểm
này,họ đã nắm bắt các quy luật khách quan của giới tự nhiên. Từ đó làm chủ các
quy luật và biến các quy luật đó từ chỗ chi phối các hoạt động kinh tế đến chỗ
bị các hoạt động kinh tế chi phối.
Lúc này các quy luật kinh tế lại trở thành
yếu tố phục vụ con người. Việc vận dụng vào tổ chức quản lý kinh tế gồm một số
nhuyên lý sau:
Một là: trong nền kinh tế không có
một sự kiện nào ở trạng thái cô lập tách rời với sự kiện khác .
Hai là: Các thị trường hàng hoá cụ thể
không tồn tại ở trạng thái cô lập tách rời. Do đó cần phân loại, đánh giá các
mối liên hệ có thể điều chỉnh cho nền kinh tế đi đúng hướng.
Ba là : Bản thân nền kinh tế cũng
không tồn tại trong trạng thái cô lập mà trong mối quan hệ quy định lẫn nhau
giữa các lĩnh vực kinh tế-chính trị-ngoại giao- khoa học công nghệ .....
Vậy mọi sự kiện kinh tế chỉ tồn tại
trong biểu hiện với tư cách là nó trong mối quan hệ với những sự kiện khác. Như
vậy sự hình thành, phát triển kinh tế hàng hoá là tất yếu đối với sự phát triển
của xã hội. Đến đây ta có thể khẳng định quan điểm trong triết học Mác-Lê nin
là hoàn toàn đúng đắn và vai trò to lớn đối với lĩnh vực hoạt động kinh tế của
con người ,đặc biệt vai trò đó đã được phát huy tích cực trong nền kinh tế thị
trường.
PHẦN NỘI DUNG
VIỆC CHUYỂN ĐỔI SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT
NAM
I. CHỦ CHƯƠNG
,CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC CHUYỂN ĐỔI SANG NỀN KINH TẾ THI
TRƯỜNG
1-Một
số nét nổi bật của nền kinh tế nước ta trước khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường.
Sau năm 1975 do vừa trải qua hai
cuộc chiến tranh chống Pháp va chống Mỹ nền kinh tế của nưóc ta đã bị tàn phá
nặng nềvề cơ sở hạ tầng. Kinh tế của đất nước chủ yếu dựa vào nông nghiệp nhưng
nông nghiệp lại nghèo nàn lạc hậu .Hình ảnh “con trâu đi trước, cái cày đi sau”
đặc biệt là phương thức “hợp tác hoá, tập thể hoá” đã tạo nên sức ỳ và sự trì
trệ lớn.Việc phân phối lao động theo khẩu hiệu “Làm theo năng lực hưởng theo
nhu cầu”dẫn đến sự ỷ lại của người lao động mà không quan tâm đến năng suất lao
động. Bên cạnh nền nông nghiệp nghèo nàn,lạc hậu là các nghành nghề hoạt động
yếu kém,thiếu thốn về cơ sở vật chất,về nền tảng khoa học do đó không thể làm
tiền đề cho sự phát triển kinh tế, một hạn chế rõ nhất đó là sản phẩm được phân
phối bằng tem phiếu.
Nền kinh tế của đất nước đã như vậy
cộng thêm cơ chế quản lý tập trung,quan liêu,bao cấp mà đất nước ta còn mất đi
sự viện trợ của Liên Xô và các nước XHCN cũ,cấm vậnkinh tế,đặc biệt là lệnh cấm
vận kinh tế của Mĩ. Chính vì vậy, giai đoạn 1975-1985 nền kinh tế của nước ta
chậm phát triển. Những mâu thẫu nội tại từ nền kinh tế nước ta đòi hỏi phải đổi
mới kinh tế để thoát khỏi khủng hoảng và thúc đẩy các yếu tố hàng hoá phát
triển.
2-Chính
sách đổi mới nền kinh tế của Đảng và nhà nước ta.
Tháng 2 năm 1986 Đại hội toàn quốc
lần thứ 6 Đảng cộng sản Việt Nam đã tự phê phán nghiêm túc và đề ra đổi mới
toàn diện xã hội.Đặc biệt là đổi mới về mặt kinh tế đó là chuyển sang nền kinh
tế thị trường đồng thời cho chúng ta thấy rõ một nhận thức.Không thể tách rời
các mục tiêu kinh tế xã hội ra khởi các mục tiêu kinh tế của bất cứ một chính
sách kinh tế xã hội nào ,các yếu tố xã hội được xem như là sức mạnh nội sinh.Mà
đã là sức mạnh nội sinh thì không nên xem các mục tiêu xã hội chỉ tuỳ thuộc vào
các thành tựu kinh tế,ngược lại phải thấy rõ mối tương tác biện chứng giữa các
mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế.Nói đến mục tiêu xã hội,chính là nói tới
con người, từng lợi ích của con người và từng cộng đồng xã hội.Con người vừa là
nguồn lực quan trọng nhất vưa là đối tượng hướng tới hành vi kinh tế.
Người ta ngày càng thấy rõ kinh tế
học gắn bó mật thiết với xã hội học.Trên ý nghĩ đó,Đảng ta có su hướng cho rằng
chính sách kinh tế tức là chính sách xã hội trên lĩnh vực kinh tế.
Đương nhiên, làm được điều đó không
dễ.Bởi lẽ nếu trong những quyền của con người hướng tới quyền kinh tế là cơ bản
nhất,quền chính trị là quyền quyết định nhất và quyền xã hội là quyền cao nhất
nếu được nhận thức một cách đích thực ,các thành phần kinh tế điều suất phát từ
thực tế xã hội đang vận hành theo quy luận của nó.Cần nhớ lời khuyên của Mác:
“một xã hội ngay cả khi đã phát hiện được quy luận tự nhiên vận động của
nó,cũng không thể nào nhẩy qua các giai đoạn tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá
bỏ những giai đoạn đó.Nhưng nó có thể rút ngắn và làm xoa dịu bớt cơn đau...”
Qua đó Đảng ta đã rút ra một bài học
đau đớn của chủ nghĩa duy ý chí “muốn
đốt cháy dai đoạn,không tính đến tình hình nước ta”.Phải làm gì ngay bây giờ
đây ? Phải đổi mới tư duy, đổi mới giải pháp chiến lược tình thế và chiến lược
lâu dài nhằm giải phóng sức sản xuất.
Biện chứng của sự vật sinh sản ra
biện chứng của tư duy chứ không thể là ngược lại _đẽo chân vừa giày.Tự chúng ta
phải tự tạo ra sức mạnh cho mình,phải tự tháo gỡ những ách tắc trong tư duy.Một
lần nữa xin được cầu viện đến Mác “yêu cầu từ bỏ tình cảnh của mình cũng là yêu
cầu từ bỏ cái tình cảnh đang cần có ảo
tưởng”.Trên ý nghĩ đó nghị quyết 8 của Đảng chỉ rõ : “Vận dụng cơ chế thị
trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước,đồng thời xác
lập ctự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh,nhằm phát huy tác động tích cực
to lớn đi đôi với ngăn chặn hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của thị
trường.Nhà nước quản lýthị trường bằng pháp luận,cơ chế,kế hoạnh,các công cụ
đòn bẩy kinh tếvà bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước” (*).Tại sao
nền kinh tế thị trường lại phải có sự quản lý của nhà nước.
Chúng ta đã biết, cơ chế hoạt động
của nền kinh tế thị trường rất phức tạp bỏi nó bị chi phối bởi hàng loạt các
quy luận kinh tế đan xen chằng chịt.Cơ chế thị trường với những ưu điểm: Kích
thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo các điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh tế .Từ đó làm cho nền kinh tế năng động và huy động được các nguồn
lực xã hội vào phát triển kinh tế.Sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường phải
áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất để từ đó nâng cao
năng suất lao động.
Lịch sử phát triển của sản xuất đã
chứng minh rằng :Cơ chế thị trường là cơ chế điêu tiết nền kinh tế hàng hoá đạt
hiệu quả cao.Song nó cũng không phải là hoàn hảo mà nó vốn có những khuyết
tật,đặc biệt là về mặt xã hội. Có thể kể ra một số khuyết tật của nền kinh tế
thị trường như lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường,đặc biệt
là gây ra các tệ nạn xã hội làm tổn hại đến truyền thống đạo đức của dân tộc .
Đảng và nhà nước ta đã nhận thức rõ
điều đó.Trên cơ sở lý luận thực tiễn,bằng biện pháp áp dụng quan điểm trong
triết học Mác-Lênin,đã xem xét cơ chế thị trường một cách tổng thể,nhìn nhận
dưới mọi góc độ,đánh giá những ưu điểm,nhược điểm,từ những thành tựu đến
nhữngthiếu sót trong nền kinh tế thị trường.Đặc biệt Đảng vàNhà nước ta đã đặt
nền KT thị trường vào hoàn cảnh của Việt Nam nhận thức so sánh giữa cái được và
cái mất,nắm vững bản chất của kinh tế thị trường với đầy đủ các yếu tố và thuộc
tính của nó. Do vậy,trong quan điểm của
Đảng ta thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu: “Dân giầu-Nước
mạnh-Xã hội công bằng-Văn minh”
Cơ chế thị trường theo định hướng
định hưóng xã hội chủ nghĩa hay cơ chế thị trường của chủ nghĩa xã hội có những
đặc trưng sau
Trước hết, Trong kinh tế thị trường
dưới CNXH sở hữuquốc doanh và tập thể phải dữ vai trò chủ thể (định lượng)và
chủ đạo(định tính).Đặc trưng này đã phân biệt kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Mặt khác,phải khuyến khích kinh tế cá
thể,tiểu chủ và tư nhân trong các nghành nghề.Nhà nước chỉ can thiệp khi có
những biểu hiện tiêu cực.Chính vì vậy mà kinh tế thị trường ở nước ta phải đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Để áp dụng vào thực hiện nền kinh tế
thị trường của CNXH Đảng và nhà nước ta đã đề ra một số biện pháp sau: đảm bảo
ổn định chính trị xã hội cần thiết lập hệ thống pháp luật đây là nhiệm vụ cơ
bản và lâu dài.Bởi vì xã hội ổn định về thể chế chính trị là nền tảng để phát
triển kinh tế, mà xã hôi muốn đảm bảo công bằng thì phải có sự quản lý của nhà
nước bằng hệ thống pháp luật khiến cho mọi người yên tâm lao động và hoạt động
kinh tế .
II-
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG DƯỚI SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM .
Những
mục tiêu, thành tựu -hạn chế và biện pháp khắc phục:
Nhờ chuyển sang nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 10
năm thực hiện đổi mới nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to
lởntong tất cả các nghành, các thành phần kinh tế.
Về nông nghiệp:Từ một nền nông
nghiệp nghèo nàn,lạc hậu hiện nay nông nghiệp nước ta có nhiều đổi mới. Sự
nghiệp công nghiệp hoá -hiện đại hoá đưa máy móc vào sản xuất nông nghiệp đã giải
phóng dần dần sức lao động của người dân.Việc áp dụng khoa học kỹ thuật,đưa
phân bón, thuốc trừ sâu, các giống lúa mới, kỹ thuật canh tác mới vào sản xuất
đã nâng cao năng suất lao động. Sản lượng nông nghiệp không những đáp ứng nhu
cầu của người dân mà còn dư thừa để xuất khẩu.Thành tựu to lơn đó phải kể đến
là nước ta đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu gạo.
Về công nghiệp: Từ một nền công
nghiệp nhỏ bé, hiện nay công nghiệp đã đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế
của đất nước. Nhiều nhà máy lớn với thiết bị máy móc hiện đại được xây dựng và
phát triển mạnh.Nếu như trước đây chỉ có nghành công nghiệp khai khoáng, đóng
tầu, dệt may... thì nay đã phát triển thêm các nghành công nghiệp mới như các
nghành; chế tạo máy, chế biến thực phẩm,công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng,
công nghiệp điện tử... đặc biệt là nhà máy chế biến dầu thô ở Dung Quất - Quảng
Ngãi, đây là nhà máy lọc dầu vào loại lớn nhất ở khu vực Đông Nam á.
Nghành du lịch và dịch vụ trong những năm gần
đây đem lại phát triển thu nhập lớn cho nền kinh tế nước ta. Các khu du lịch
nổi tiếng, di tích lịch sử được bảo tồn, tôn tạo hàng năm thu hút lượng du
khách rất lớn cả trong nước và trên quốc tế.
Nghành giao thông vận tải đáp ứng khá đầy đủ
nhu cầu của nền kinh tế. Hệ thống cầu đường được nâng cấp và sửa chữa nhiều.
Xây dựng nhiều tuyến đường và cầu phà, đảm bảo lưu thông được nhanh chóng ,phù
hợp với tốc độ vận động của kinh tế thị trường, không những phát triển giao
thông đường bộ mà cả giao thông đường thuỷ, đường hàng không cũng phát triển
đáng kể .
Trong thương nghiệp: những năm gần
đây còn mở rộng các quan hệ kinh tế. Đặc biệt là các nước trong khu vực Đông
Nam á .Luật đầu tư nước ngoài với những
điểm tạo điều kiện cho phía đầu tư đã ngày càng thu được những hợp đồng kinh tế
quan trọng. Thật đáng mừng với con số 1644 dự án đầu tư được cấp giấy phép với
tổng số vốn là 21,8 tỷ USD tính từ năm 1996-1998.
Bên cạnh việc chỉ đạo đổi mới và
phát triển kinh tế Đảng và nhà nước ta cũng không quên tính khách quan, tính
duy vật của kinh tế. Vì vậy Đảng luôn đặt nền kinh tế vào trung tâm và so sánh
với các hoạt động khác.Để trong sự tồn tại phát triển của xã hội có sự đồng bộ
giữa các nghành, các lĩnh vực đảm bảo sự phát triển vững vàng ,an toàn và hiệu
quả.
Ta đã biết, công bằng xã hội là một
đặc trưng cơ bản của xã hội mới, là ước mơ khát vọng của nhân dân, là động lực
thúc đẩy mọi người vươn lên trong cuộc sống. Muốn như vậy, các nhà lãnh đạo của
nước ta phải luôn vạch ra đường lối chỉ đạo cho các hoạt động diễn ra theo đúng
quy luật. Một số giải pháp mà nhà nước ta đã thực hiện là: bên cạnh việc phát
triển KTTT là chính sách đẩy mạnh KHKT, khuyến khích tài năng sáng chế, phát
minh bảo vệ môi trường, chống buôn lậu và làm hàng giả. Xây dựng hệ thống pháp
luật đảm bảo quyền bình đẳng cho các doanh nghiệp, mà pháp luật là một bộ phận
của kiến trúc thượng tầng, pháp luật nói chung và pháp luật hành chính nói
riêng có mối quan hệ biện chứng với kinh tế. Đồng thời , nền kinh tế thị trường
đã quyết định sự hiện diện của pháp luật hành chính với những quy định mới,
quyết định toàn bộ nội dung và tính chất cũng như cơ chế điều chỉnh của pháp
luật hành chính đã tạo ra hành lang pháp lý mới đảm bảo tính quyền lực nhà nước
đồng thời đảm bảo nguyên tắc tự do, dân chủ. Vai trò của pháp luật hành chính
đối với nền kinhtế thị trường thể hiện ở các mặt sau: Về cơ cấu sở hữu;cơ chế
kinh tế; Về xác định địa vị pháp lý hành chính của cơ quan nhà nước trong nền
kinh tế thị trường; Về cơ chế giải quyết khiếu lại tố cáo của công dân. Như
vậy, để quản lý xã hội bằng pháp luật nhất là trong bối cảnh có sự chuyển đổi
kinh tế xã hội, đòi hỏi Nhà nước phải
thường xuyên củng cố, hoàn thiện cơ chế điều chỉnh của pháp luật.
Quá trình cải cách kinh tế không chỉ
thành công trong việc thúc đẩy kinh tế mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho
các tầng lớp dân cư Việt Nam. Các mặt xã hội trong vài năm gần đây được nâng
cao và cải thiện đặc biệt việc giáo dục đã đạt đưọc những thành tựu đáng kể
trong giai đoận phát triển. Một số kết quả dưới đây sẽ cho chúng ta thấy rõ:
như năm 1989 tỷ lệ ghi danh sách của cấp 1 là 97% thì đến năm 1995tỷ lệ này là
115%, tỷlệ ghi danh sách cấp 2 của năm1989 là 46,2%, đến năm 1995 tăng
lên54,8%, tương ứng ở cấp 3 tỷ lệ này tăng 16,4% năm 1989, tăng 18,9%năm 1995.
Số lượng trung học, dậy nghề và đại học cũng tăng đáng kể. Đầu tư ngân sách cho
giáo dục đào tạo tăng đáng kể. Nếu năm 1990 đầu tư cho giáo dục chỉ chiếm 8,3% tổng
chi ngân sách và 1,83%GDP thì đến năm1994 chiếm tới 10,44% tổng chi ngân sách
và 2,7% GDP
Dù có những thành công nêu trên,song
sự nghiệp giáo dục và đào tạo ỏ Việt Nam cũng đang đứng trước nhiều thách thức
lớn với những nhiệm vụ nặng nề trước các yêu cầu mới về phát triển kinh tế.
Những cản ngại và thách thức trong giáo dục và đào tạo ở VN bao gồm:hiến pháp
và các chính sách của VN đều khuyến khích mọi công dân đều có bình đẳng và ngang
nhau về cơ hội học hành nhưng trên thực tế vẫn còn sự bất bình đẳng về cơ hội
học hành giữa nam và nữ, giữa thành thị và nông thôn, giữa giàu và nghèo; chất lượng nguồn lực lại chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển; chất lượng đội ngũ giáo viên các cấp vẫh còn thấp
chưa đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục;
đầu tư về giáo dục vẫn còn hạn chế và quản lý giáo dục-đào tạo còn những bất
cập trong phân cấp quản lý các nguồn tài chính cho giáo dục- đào tạo.
Không những phát triền kinh tế,giáo
dục, hệ thống pháp luật .......mà cần phải coi trọng đến hệ thống quốc phòng.
Trong điều kiện địa hình dài hẹp dễ bị chia cắt như nước ta ,nếu sự phát triển
của kinh tế chỉ tập trung vào một số nghành, địa bàn thuận lợi mà nhà nước
thiếu sự định hướng phát triển bằng một chiến lược, kế hoạnh, quy hoạnh tổng
thể sẽ tạo ra sự phát triển thiếu cân đối giữa các nghành, các vùng. Từ đó thế
trận bảo đảm kinh tế cho quốc phòng không được bố chí hợp lý để tạo ra lực cộng
hưởng giữa các thành phần kinh tế. Mặc dù đang là nhà nước độc lập, tự do nhưng
nhà nước vẫn phải củng cố quốc phòng toàn dân. Cảnh giác với mọi thế lực thù
địch luôn tìm cách chống phá cách mạng và lật đổ chủ nghĩa xã hội ở VN không
ngừng tuyên truyền giáo dục cách mạng cho nhân dân, xây dựng lòng tin cho nhân
dân vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự quản lý có hiệu lực của nhà nước.
Như vậy tính chất bảo đảm quốc phòng trong nền kinh tế thị trường cũng chở nên
phức tạp, đòi hỏi phải có sự kết hợp của nhiều lực lượng từ Trung ương đến cơ
sở, thông qua một cơ chế đảm bảo đồng bộ, hiệu lực và hiệu quả.
Chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước không chỉ là hoạt động kinh tế bó hẹp trong
nước mà còn phải tham gia vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Muốn làm được điều
đó ta phải xem xét, đánh giá một cách kỹ lưỡng, tìm ra mối quan hệ vốn có của
nó đồng thời có sự phân loại, đánh giá vai trò cuả từng mối quan hệ để thấy rõ
các thuộc tính của nó (ví dụ: xuất
khẩu, nhập khẩu, vay vốn nước ngoài.......)
Những thành tựu kể trên là kết quả
to lớn trong những năm chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, chúng ta
luôn tự hào về điều này song vẫn còn là quá nhỏ bé so với sự phát triển của thế
giới. Từ đó đòi hỏi Đảng và toàn dân ta phải tiếp tục phát huy trong thời gian tới.
Việc chuyển sang nền kinh tế thị
trường phải có một nhà nước pháp quyền mạnh, nhưng thể chế chính trị còn chưa
hoàn hảo, chưa thực hiện công bằngXH. Nạn tham nhũng,lợi dụng chức quyền làm
sói mòn niềm tin của nhân dân vào Đảng và nhà nước. Nạn thất nghiệp làm cho
nhiều người không có việc làm dẫn đến nẩy sinh các tệ nạn xã hội .....
Vì vậy Đảng ta cần vận dụng quan
điểm, lý luận của triết học Mác-Lênin để khắc phục những hạn chế nói trên.
Hiện nay Đảng và nhà nước ta đã
đề ra hàng loạt các biện pháp thực hiện nhằm định hướng cho nền kinh tế thị
trường đạt được kết quả cao nhất mà vẫn đảm bảo công bằng xã hội như: xã hội định rõ nội dung-mục tiêu và bước đi
của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường vẫn dữ đúng chủ nghĩa xã hội
.Phát huy đầy đủ vai trò của các đòn bẩy kinh tế .Nhanh chóng giải quyết vấn đề
việc làm trong xã hội. Đẩy lùi các tệ nạn, thực hiện công bằng hoạt động và
phát triển.
Ngày nay, KTTT chịu sự tác động
tích cực của nhà nước, do Đảng đứng đầu. Nhận thức rõ điều đó Đảng và nhà nước
luôn từng bước xem xét, đánh giá những kết quả đạt được. Đồng thời rút ra kinh
nghiệm, phương hướng và mục tiêu phát triển sau này. Để giải quyết những vấn đề
đó quản lý kinh tế cần suất phát từ các quan điểm sau:
Cần phát triển đồng bộ các thành
phần kinh tế, tuân thủ theo nguyên tắc tự do giá cả bên cạnh luôn coi trọng thị
trừơng nông thôn và lấy hoạt động nhập khẩu làm đòn bẩy . Khuyến khích phát
triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, áp dụng nguyên lý lợi thế trong quan
hệ trao đổi quốc tế. Tiếp tục đổi với sự quản lý của nhà nước bằng hệ thống
pháp luật. Đặc biệt chú trọng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế thu hút vốn đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam. Hướng tới mục tiêu xã hội: “dân giàu – nước mạnh
-xã hội công bằng văn minh”
Nói tóm lại trong thời gian tới Đảng
nhà nước ta phải hoạt hoạt động sao cho đạt hiêụ quả cao nhất trong mọi mặt của
đời sống xã hội ./.
PHẦN KẾT LUẬN
I-
Tóm lược lại phần nội dung.
Từ những vấn đề đã nêu lên ở trên ta
có thể khẳng định :
Việc vận dụng quan điểm trong triết
học Mác- Lênin vào sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta là một
quyết định sáng suốt của Đảng và Nhà nước. Cơ sở lý luận là một chân lý được
chứng minh trong suốt quá trình phát triển của xã hội Bên cạnh đó khi áp dụng
vào Việt Nam lại được lãnh đạo Đảng xem xét, đánh giá toàn diện, khách quan.
Đặt điều kiện hoàn cảnh của đất nước từ đó có chính sách đổi mới và phát triển
phù hợp . Hơn 10 năm qua lĩnh vực kinh tế của đất nước đã đạt những kết quả và
thành tựu to lớn, kinh tế tăng trưởng nhanh, xã hội ổn định và vững bước đi
lên. Đời sống nhân dân được cải thiệt đáng kể .
Tuy nhiên trong lòng bản chất của
nền kinh tế thị trường được ví như con dao hai lưỡi, nó cũng có những khuyết
tận riêng, nhưng khuyết tận đó cũng được biểu hiện trong nền kinh tế ở Việt
Nam. Nhưng chính sách của Đảng luôn luôn được đề ra để khắc phục những hạn chế
một cách tốt nhất. Đồng thời, phương hướng đổi mới và phát triển cũng được đặt
ra tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định nền kinh tế của đất nước trong tương
lai .
Trên đây một số ý kiến phân tích quá
trình chuyển đổi sanh nền kinh tế thị trường ở Việt Nam mà em đã tiếp thu được
trong quá trình học tập và tham khảo tài liệu.
II-
Ý kiến của bản thân .
Qua thời gian học tập các môn:Triết
học, Kinh tế chính trị, Giáo dục quốc phòng .... ở trường cùng với bài tiểu
luận đầu tay này. Em đã rút ra được nhiều bài học bổ ích và thực sự có thêm
nhiều hiểu biết. Trước đây khi còn học ở phổ thông em hiểu rất mơ hồ về nền
kinh tế thị trường ở nước ta. Nhưng bây giờ em đã hiểu rõ hơn về nền kinh tế
thị trường những ưu điểm và nhược điểm của nó. Cũng nhờ học quan điểm trong
triết học Mác- Lênin em có thêm vững vàng trong việc đánh giá, nhận xét các sự
việc trong cuộc sống .
Qua đây em cũng hiểu được vai trò
lãnh đạo của Đảng và việc quản lý xã hội của nhà nước. Đảng là ánh thái dương
chỉ đường cho mọi hoạt động của nhà nước, Nhà nước bước theo con đường của Đảng
vạch ra, đưa nước ta hội nhập vào su thế phát triển chung trên thế giới .
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước
ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá vơí chiến lược hướng
ra xuất khẩu. Nhưng hiện nay đất nước ta vẫn còn nhiều khó khăn mà khó khăn lớn
nhất là tiềm lực kinh tế còn non yếu. Chắc chắn rằng trong tương lai Đảng và
Nhà nước ta sẽ có những chính sách tốt nhất để khắc phục các hạn chế.
Bằng trình độ hiểu biết của em về
tình hình kinh tế - chính trị -xã hội của nước ta. Em xin đưa ra một ý kiến nhỏ
của riêng mình. Đó là, em mong muốn rằng Đảng và nhà nước ta sẽ quan tâm hơn
nữa đến thế hệ trẻ nhất là sinh viên chúng em.
Theo em nghĩ thế hệ trẻ luôn là lực
lượng nòng cốt cho đất nước sau này. Vận mệnh của đất nước trong tương lai chụi
sự chi phối không nhỏ của thế hệ trẻ. Nếu hiện nay thế hệ này được giáo dục -
đào tạo tốt sẽ là tiền đề cho đất nước phát triển ổn định. Là một sinh viên
được học tập và rèn luyện tại trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Em mong
sẽ nhận được sự quan tâm hơn nữa của Đảng và Nhà nước để chúng em có được một
môi trường học tập và rèn luyện tốt hơn, mong đóng góp một phần sức lực nhỏ bé
của mình vào sự nghiệp phát triển chung của Đất nước .
Tuy em đã hết sức cố gắng vận dụng
sự hiểu biết của mình để hoàn thành bài viết song vẫn không tránh khỏi những
thiếu sót và những điểm hạn chế. Đây là bài tiểu luận đầu tay, em rất mong được
sự thông cảm của Thầy. Hơn nữa, em mong được thầy cho ý kiến đánh giá và nhận
xét để em có thể viết tốt hơn trong những bài tiểu luận sắp tới.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. C. mác –Ph.Anghen. Toàn tập, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội 1993.
2. Tạp chí Triết học số: 3(91) Tháng 6 năm 1996 ,1(101) tháng 2 năm
1998.
3. Văn kiện Đại hội đậi biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 1996, tr 97.
4. Tạp chí
phát triển kinh tế: Số 96 năm 1998.
Tiến sĩ. Vũ Anh Tuấn bài: “Kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
đổi mới ở nước ta” .
5. Tạp chí
luật học: Số 72năm 1996 .
Giảng viên trường ĐH Luật Hà Nội -“Vai trò
của pháp luật hành chính trong nền KTTT ở Việt Nam” .
6. Tạp chí
phát triển kinh tế: Số 86 năm 1997
PGS.PTS Nguyễn Thị Cành: “ Vấn đề giáo dục
và đào tạo trong nền kinh tế chuyển đổi Việt Nam.”
7. Tạp chí
công nghiệp số 5 năm 1997
Trung tá Ngô Minh Hoàng(Cử nhân kinh tế):
“ Vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng trong nền kinh tế thị trường.”
8. Tạp chí
cộng sản số 3 năm 1993
9. Tạp chí
thị trường tài chính tiền tệ 6/1998
GSTS. Ngô Đình Giao: “ Về quá trình phát
triển nền KTTT theo định hướng XHCN.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét