lời mở
đầu
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm
đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội
vào tay mình. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả
lao động mà họ còn bị áp bức về chính trị, xã hội và tinh thần. Không có sự
bình đẳng giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, chẳng hạn giữa giai cấp
các nhà tư bản với giai cấp những công nhân làm thuê. Giai cấp bóc lột bao giờ
cũng dùng mọi biện pháp và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì
củng cố kinh tế xã hội cho phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai
cấp. Công cụ chủ yếu là quyền lực nhà nước. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị
đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Đây là đối kháng về quyền
lợi giữa những giai cấp áp bức bóc lột và những giai cấp, tầng lớp bị áp bức,
bị bóc lột.
Đối kháng là nguyên
nhân của đấu tranh giai cấp. Có áp bức thì có đấu tranh chống áp bức. Vì vậy
đấu tranh giai cấp không do một lý thuyết xã hội nào tạo ra mà là hiện tượng
tất yếu không thể tránh được trong xã hội có áp bức giai cấp.
Đấu tranh giai cấp là
một trong những động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội có sự
phân chia giai cấp.
Chương
I. Giai cấp
I. Giai cấp là gì?
Chủ nghĩa duy vật
lịch sử chỉ ra rằng, các giai cấp xã hội hình thành một cách khách quan gắn
liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất. Trong tác
phẩm "Sáng kiến vĩ đại", Lê Nin đã đưa ra định nghĩa về giai cấp như
sau:
"Người ta gọi là
giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ
trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan
hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận)
đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động
xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã
hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập
đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn
đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định.
II. Nguồn gốc và kết cấu giai
cấp.
1. Nguồn gốc giai
cấp.
Trong xã hội có nhiều
nhóm người, tập đoàn người được phân biệt bằng những đặc trưng khác nhau: tuổi tác, giới tính, dân tộc, chưng tộc, quốc
gia, nghề nghiệp… Trong những sự khác nhau đó, có một số là do nguyên nhân tự
nhiên, một số khác là do nguyên nhân xã hội. Những sự khác biệt đó tự nó không
sản sinh ra sự đối lập về xã hội. Chỉ trong những điều kiện xã hội nhất định
mới dẫn đến sự phân chia xã hội thành những giai cấp khác nhau. Chủ nghĩa duy
vật lịch sử khẳng định sự phân chia xã hội thành giai cấp là do nguyên nhân
kinh tế.
Sản xuất xã hội dần
dần phát triển, việc sử dụng công cụ bằng kim loại làm cho năng suất lao động
tăng lên đã dẫn tới sự phân công lại lao động trong xã hội: chăn nuôi tách khỏi
trồng trọt, sản xuất thủ công cũng dần dần trở thành một ngành tương đối độc
lập với nông nghiệp, lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay. Với lực lượng
sản xuất mới, chế độ làm chung, ăn chung
nguyên thủy không còn thích hợp nữa, sản
xuất gia đình cá thể trở thành hình thức sản xuất có hiệu quả hơn. Tư liệu sản
xuất và sản phẩm làm ra trở thành tài sản riêng của từng gia đình. Sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất xuất hiện và dần dần thay thế sở hữu cộng đồng nguyên
thuỷ. Chế độ tư hữu ra đời dẫn tới sự bất bình đẳng về t ài sản trong nội bộ
công xã. Xã hội phân hoá thành những giai cấp khác nhau, giai cấp bóc lột thống
trị và giai cấp bị bóc lột, bị thống trị. Như vậy, sự phân chia xã hội thành
giai cấp là kết quả tất nhiên của chế độ kinh tế dựa trên sự chiếm hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất.
Sự hình thành giai
cấp diễn ra theo hai con đường:
- Thứ nhất, sự phân
hoá bên trong nội bộ công xã thành kẻ bóc lột và người bị bóc lột.
- Thứ hai, những tù
binh bị bắt trong chiến tranh giữa các bộ lạc không bị giết như trước mà bị
biến thành nô lệ.
Chế độ có giai cấp
đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người là chế độ chiếm hữu nô lệ, tiếp theo
là chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa là bước phát triển cuối cùng và cao nhất của xã hội có giai cấp.
2. Kết cấu giai
cấp.
Trong xã hội có giai
cấp, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một kết cấu giai cấp nhất định. Khi
hình thái kinh tế - xã hội này thay thế hình thái kinh tế - xã hội khác, kết
cấu giai cấp cũng thay đổi.
Mỗi kết cấu giai cấp
trong xã hội có giai cấp đều có các giai cấp cơ bản và không cơ bản. Những giai
cấp cơ bản là những giai cấp xuất hiện và tồn tại gắn liền với phương thức sản
xuất thống trị của xã hội. Sự đối kháng và cuộc đấu tranh của các giai cấp đó
biểu hiện mâu thẫun cơ bản của phương tứhc sản xuất đã sinh ra chúng.
Bên cạnh những giai
cấp cơ bản, trong kết cấu giai cấp còn có giai cấp không cơ bản. Trong xã hội
chiếm hữu nô lệ, đó là những nông trị do có ít ruộng đất. Trong xã hội phong
kiến, đó có thể là giai cấp nô lệ và chủ nô với tư cách tàn dư của xã hội củ;
là giai cấp tư sản ra đời trong lòng xã hội phong kiến. Trong xã hội tư bản,
những giai cấp không cơ bản là giai cấp địa chủ với tư cách là tàn dư, giai cấp
nông dân.
Cùng với sự phát
triển sản xuất, mỗi giai cấp trong một kết cấu giai cấp - xã hội cũng có những
biến đổi nhất định. Những sự biến đổi ấy dẫn đến sự thay đổi địa vị của các
giai cấp đó trong hệ thống sản xuất xã hội.
Trong kết cấu của xã
hội có giai cấp, ngoài các giai cấp đối kháng còn có tầng lớp trí thức làm công
việc chủ yếu bằng trí óc. Tầng lớp trí thức không phải là một giai cấp. Nó được
hình thành từ những giai cấp khác nhau và cũng phục vụ những giai cấp khác
nhau.
Phân tích kết cấu
giai cấp và sự biến đổi của nó giúp ta hiểu địa vị, vai trò và thái độ chính
trị của mỗi giai cấp đối với mỗi cuộc vận động lịch sử, đặc biệt là trong cuộc
đấu tranh của thời đại ngày nay.
chương
ii. đấu tranh giai cấp.
" Đấu tranh giai
cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội
có sự phân chia giai cấp".
Đấu tranh giai cấp
thực chất là cuộc đấu tranh giữa những giai cấp mà lợi ích căn bản đối lập
nhau.
Đấu tranh giai cấp là
một trong lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng. Điều đo
được thể hiện trước hết ở chỗ: Thông qua đấu tranh giai cấp sự xung đột giữa
lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất già cỗi được giải quyết, bước quá độ
từ một chế độ xã hội lỗi thời sàng một chế độ mới cao hơn được thực hiên.
Xét đến cùng, nhân tố
quyết định sự phát triển của xã hội loài người là hoạt động sản xuất ra của cải
vật chất. Song sự phát triển của sản xuất chỉ diễn ra khi quan hệ sản xuất còn
phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời thì mâu thuẫn với
lực lượng sản xuất, mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa
giai cấp cách mạng đại biểu cho phương thức sản xuất mới, với giai cấp bóc lột,
thống trị - đại biểu cho những lợi ích gắn liền với quan hệ sản xuất lỗi thời.
Mẫu thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết
bằng cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp cách mạng và quần chúng bị bóc lột, mà đỉnh cao của nó là cách mạng
xã hội, thay thế quan hệ xã hội cũ bằng quan hệ sản xuất mới, mở ra địa bàn mới
cho sản xuất xã hội phát triển. Sản xuất xã hội phát triển, đương nhiên kéo
theo sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.
Từ khi phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện trên vũ đài lịch sử, việc xã hội nắm lấy
quyền sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất đã luôn luôn là một lý tưởng tương lai mà
nhiều cá nhân cũng như nhiều môn phái trọn vẹn đã từng phảng phất nhìn thấy ít
nhiều lờ mờ ở trước mắt. Nhưng việc chiếm hữu đó chỉ có thể trở thành một khả
năng, trở thành một tất yếu lịch sử, một khi mà các điều kiện vật chất để thực
hiện việc đó đã có sẵn rồi. Cũng như mọi sự tiến bộ khác của xã hội, việc đó mà
có thể thực hiện được, thì không phải là do ở chỗ người ta đã hiểu rằng sự tồn
tại của giai cấp là trái với chính nghĩa, trái với bình đẳng,… không phải là do
ở chỗ chỉ đơn thuần có ý muốn tiêu diệt các giai cấp ấy, mà là do những điều
kiện kinh tế mới nhất định. Tình trạng xã hội phân chia thành một giai cấp bóc
lột và một giai cấp bị bóc lột, thành một giai cấp thống trị và một giai cấp bị
áp bức là một hậu quả tất nhiên của tình trạng phát triển thấp kém của nền sản
xuất trước kia. Chừng nào tổng số sản phẩm do lao động của xã hội làm ra chỉ
mới cung cấp được một số gọi là vượt chút ít cái số thật cần thiết để vừa đủ để
đảm bảo sự sinh sống của mọi người mà thôi, chừng nào mà lao động vẫn choán hết
hay hầu hết thời giờ của đại đa số thành viên trong xã hội, thì tất nhiên xã
hội đó phải chia thành gia cấp là điều tất yếu xẩy ra. Khi giai cấp thống trị
này, hay một giai cấp thồng trị khác trở thành một sự lỗi thời, một trạng thái
cổ hủ thì cần phải có một giai cấp mới tiến bộ hơn, phát triển hơn phù hợp với
quan hệ sản xuất mới và diễn ra cuộc đấu tranh giữa những giai cấp này, giai
cấp tiến bộ tất yếu sẽ giành thắng lợi và cứ như thế thúc đẩy xã hội phát triển
đi lên.
C.Mác và Ph.Ăngghen
chứng minh rằng, sản xuất vật chất để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của
con người và xã hội loài người là hành động lịch sử đầu tiên của con người. Tác
động biện chứng giữa cải tiến sản xuất với nhu cầu không ngừng tăng lên là động
lực phát triển cơ bản, thường xuyên của tất cả xã hội. Sản xuất vật chất bao
giờ cũng phát triển trong một quan hệ sản xuất nhất định. Khi quan hệ sản xuất
không còn phù hợp với lực lượng sản xuất, thì nó trở thành xiềng xích của lực
lượng sản xuất, dẫn đến những cuộc khủng hoảng phá hoại lực lượng sản xuất,.
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, những quan hệ sản xuất lỗi thời không
tự động nhường chỗ cho quan hệ sản xuất mới. Chúng được giai cấp thống trị bảo
vệ bằng tất cả sức mạnh chính trị, kinh tế và tư tưởng, đặc biệt là bằng bạo
lực có tổ chức. Muốn thay đổi quan hệ sản xuất để giải phóng sức sản xuất phải
gạt bỏ lực cản lớn lao ấy. Điều đó chỉ có thể thực hiện được qua đấu tranh giai
cấp và cách mạng xã hội. Xuất phát từ quan điểm xem sự vận động nội tại của
phương thức sản xuất quyết định sự phát triển của toàn bộ lịch sử xã hội, C.Mác
và Ph Ăngghen đã xem đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là thời kỳ cách mạng, như
đòn bẩy để thay đổi hình thái kinh tế - xã hội do đó "đấu tranh giai cấp
là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp.
Trong xã hội có áp
bức giai cấp, đấu tranh giai cấp chăng những cải tạo xã hội mà còn có tác dụng
cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và quần chúng lao động. Chỉ qua đấu
tranh cho tự do, không cam chịu số phận nô lệ, các giai cấp bị áp bức mới gột
sửa được tinh thần nô lê và những tập quán xấu do chế độ người áp bức người sản
sinh ra.
Lịch sử nhân loại đã
chứng minh vai trò to lớn của đấu tranh giai cấp chống áp bức bóc lột. Thời cổ đại
nếu không có các cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của hàng chục vạn nô lệ và
tầng lớp bình dân chống giai cấp chủ nô thì chế độ nô lệ dù đã thối nát cũng
không thể sụp đổ. Cuối xã hội phong kiến các phong trào đấu tranh của nông dân,
thợ thủ công, thương nhân, trí thức… do giai cấp tư sản lãnh đạo đã dẫn đến các
cuộc cách mạng tư sản trong các thế kỷ XVI, XVII, XVIII làm sụp đổ chế độ phong
kiến, đưa xã hội chuyển sang thời đại tư sản.
Cuộc đấu tranh giai
cấp do giai cấp công nhân tiến hành là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong
lịch sử loài người. Nó là pưhơng tiện tất yếu để giải phóng chia giai cấp do
giai cấp công nhân tiến hành là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử
loài người. Nó là phương tiện tất yếu để giải phóng toàn xã hội khỏi ách áp
bức, bóc lột, khỏi sử phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vì vậy đây là
một quá trình đấu tranh rất lâu dài và vô cùng phức tạp. Cuộc đấu tranh giai
cấp phát triển tất yếu dẫn đến cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng này thắng lợi
trước hết ở những khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản, nơi giai cấp công nhân và
các lực lượng cách mạng có nhữgn điều kiện khách quan và chủ quan để giành
chính quyền.
Sau khi giai cấp công
nhân dân lao động giành được chính quyền, đấu tranh giai cấp chưa biến mất mà
tiếp tục diễn ra gay go phức tạp trong điều kiện mới.
Trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội mục tiêu đấu tranh trực tiếp của gai cấp công nhân đã thay
đổi: từ mục tiêu giành chính quyền chuyển sang mục tiêu cơ bản và chủ yếu là
củng cố chính quyền của nhân dân lao động xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
trọng tâm là xây dựng kinh tế. Giai cấp tư sản đã bị lật đổ, tiến hành cuộc đấu
tranh chống cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm phục hồi chủ nghĩa tư bản.
Điều kiện đấu tranh
thay đổi, mục tiêu trực tiếp của các giai cấp thay đổi thì hình thức đấu tranh
giai cấp cũng thay đổi. Lênin dã nói: "Trong điều kiện chuyên chính vô
sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như
trước:1
Cuộc đấu tranh giai
cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bant lên chủ nghĩa xã hội diên xra
trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội văn hoá, tư tưởng.
V.I.Lênin cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ giành được thắng lợi triệt để khai giai
cấp công nhân lãnh đạo đông đảo quần chúng nhân dân xây dựng thành công phương
thức sản xuất mới, bảo đảm chủ nghĩa xã hội tạo ra được năng suất lao động cao
hơn chủ nghĩa tư bản. Mục tiêu này chưa được thực hiện thì khả năng phục hồi
chủ nghĩa tư bản vẫn còn rất lớn. Các thế lực tư bản quốc tế ra sức ngăn cản giai
cấp công nhân đã nắm chính quyền xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội bằng
nhiều phương tiện và thủ đoạn từ bao vây, cấm vận, can thiệp quân sự đến
"diễn biến hoà bình". Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động phải làm thất bại các thủ đoạn nói trên.
Trong điều kiện đã
nắm được chính quyền, giai cấp công nhân phải sử dụng tổng hợp, linh hoạt các
hình thức đấu tranh mới, trong đó có đấu tranh bằng bạo lực và bằng hoà bình,
bằng giáo dục thuyết phục và bằng hành chính, pháp chế, bằng chính trị, quân sự
và bằng kinh tế, bằng cải tạo các quan hệ cũ đã lỗi thời và xây dựng các quan
hệ mới đúng quy luật; bằng liên minh giữa giai cấp công nhân với các giai cấp,
tầng lớp lao động và các tầng lớp trung gian khác; bằng “sử dụng” giai cấp tư
sản để xây dựng chủ nghĩa xã hội, v.v... Cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội lâu
dài, gay go phức tạp như thế nào tuỳ theho điều kiện lịch sử cụ thể. ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu cũ, các lực lượng chống chủ nghĩa xã hội đã lợi dụng tình hình khủng hoảng
của chủ nghĩa xã hội, nhất là lợi dụng những sai lầm nghiêm trọng của các đảng
cộng sản cầm quyền để đảo ngược tình thế, lập lại trật tự tư sản. Hai loại sai
lầm nghiêm trọng dễ mắc phải là: .
a. Chủ quan duy ý
chí, coi nhẹ quy luật kinh tế khách quan, trong khi đó lại tuyệt đối hoá đấu
tranh giai cấ, nhất là tuyệt đối hoá một trong những hình thức của đấu tranh
giai cấp;
b. Cơ hội hữu khuynh,
mơ hồ về đấu tranh giai cấp, mất cảnh giác trước âm mưu diễn biến hoà bình của
các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xã hội vẫn tồn tại lâu dài các giai cấp, các
mâu thuẫn giai cấp. Đấu tranh giai cấp là thực tế khách quan không thể tránh
danh từ đấu tranh giai cấp, mà là nhận thức cho đúng tính chất, nội dung, hình
thức của cuộc đấu tranh, xử lý đúng đắn các quan hệ xã hội - giai cấp.
Để thực hiện mục tiêu
cách mạng là dâu giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, điều cơ bản là
phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; thực
hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi
đôi với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chính quyền nhân dân và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Toàn bộ sự nghiệp trên đây là lợi ích căn bản của dân tộc và nhân dân lao động.
Tuyệt đại đa số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bao gồm giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, các tầng lớp lao động khác, tầng lớp tư
sản dân tộc, các nhân sĩ yêu nước... tán thành mục tiêu nói trên. Tuy nhiên một
bộ phận nhỏ trong xã họi vì quyền lợi
ích kỷ, vì hận thù giai cấp, đã và đang liên kết với các thế lực phản động quốc
tế chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Vì vậy, đấu tranh giai cấp
trong thời kỳ quá độ ở nước ta trước hết là cuộc đấu tranh dưới nhiều hình thức
giữa một bên là quần chúng nhân dân lao động, các lực lượng xã hội đi theo con
đường dẫn đến mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng van minh, đoàn kết
trong mặt trận thống nhất dân tộc do Đảng lãnh đạo, với một bên là các thế lực,
các tổ chức, các phần tử chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống Đảng,
Nhà nước và pháp luật, phá hoại trật tự xã hội va an ninh quốc gia.
Các thế lực phản động
trong nước và quốc tế chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chủ yếu thông
qua “diễn biến hoà bình” nhằm thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, làm tan
rã về hệ tư tưởng tiến tới lật độ chính quyền nhân dân bằng hình thức này hay
hình thức khác.
Cuộc “đấu tranh giữa
hai con đường”, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa cũng
là biểu hiện của đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đây là cuộc
đấu tranh giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa với các nhân tố thúc đẩy đất nước dịch chuyển theo định hướng tư bản
chủ nghĩa. Các nhân tố tự phát tư bản chủ nghĩa này được những thế lực chống
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội lợi dụng phục vụ mục tiêu của chúng. Cuộc
đấu tranh giữa hai khuynh hướng phát
triển trên đây diễn ra hàng ngày hàng giờ trên tất cả các lĩnh vực, trước hết
là lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực trật tự xã hội.
Trong cơ cấu giai cấp
- xã hội ở nước ta hiện nay, ngoài công nhân, nông dân, trí thức và các tầng
lớp tư sản, tầng lớop này có điều kiện
phát triển trong nền kinh tế thị trường. Đương nhiên có mâu thuẫn về lợi ích
giữa những người lao động làm thuê với tầng lớp tư sản và có mâu thuẫn giữa sự
phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa với khuynh hướng tự phát của thành phần
kinh tế tư bản tư nhân. Đây là nhân dân lao động với tầng lớp tư sản. Mâu thuẫn
giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản, tuy mang tính
chất mâu thuẫn giữa lao động vdà bóc lột lao động, song trong điều kiện thời kỳ
quá độ nước ta lại là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dana. Kinh tế nhiều thành
phần và tầng lớp tư sản có vai trò tích cực trong sự nghiệp phát triển kinh tế,
có khả năng tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Trong xã hội ta hiện nay, lợi ích hợp pháp của các nhà tư sản căn bản
thống nhất với lợi ích chung của cộng đồng. Đây là mặt thống nhất giữa giai cấp
công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản. Quan hệ giữa giai cấp công
nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản là quan hệ vừa hợp tác vừa đấu
tranh; đấu tranh với những khuynh hướng tiêu cực của tầng lớp tư sản cũng để
thực hiện hợp tác, đoàn kết xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng văn
minh.
Trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải nắm vững quan điểm giai
cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là quan điểm cách mạng và khoa học. Sự tuyệt
đối hoá đấu tranh giai cấp, sự cường điệu đấu tranh giai cấp cũng như sự mơ hồ về đấu tranh giai cấp đều trái với quan
điểm giai cấp Mác - Lênin, đều gây tổn hại cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Kết luận
Đấu tranh giai cấp chẳng những có tác
dụng cải tạo xã hội, xoá bỏ các lực lượng xã hội phản động, mà nó còn có tác
dụng cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng.
Trong xã hội có giai
cấp, sự phát triển của các mặt văn hoía, nghệ thuật và cdác mặt khác của đời
sống xã hội không thể không mang dấu ấn của đấu tranh giai cấp, và do cuộc đấu
tranh đó thúc đẩy.
Đấu tranh giai cấp là
quy luật chung của xã hội có giai cấp. Song, quy luật ấy có những biểu hiện đặc
thù trong từng xã hội cụ thể. Điều đó do kết cấu giai cấp của mỗi xã hội, do
địa vị lịch sử của mỗi giai cấp cách mạng trong từng giai đoạn và trên từng địa
bàn quyết định. Muốn hiểu đúng quy luật đấu tranh giai cấp, còn phải phân tích
cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Tài
liệu tham khảo
1. Triết học Mác -
Lênin - toàn tập
Nhà xuất bản giáo dục
2. Giáo trình triết học Mác Lênin
Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
3. Chống Đuy - Rinh - Ph.Ăngghen
Nhà xuất bản sự thật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét